Thứ Tư, 2 tháng 11, 2016

“CÔNG HẦU BÁ TỬ NAM” LÀ CHẾ ĐỘ TƯỚC VỊ DO TRUNG QUỐC ĐẶT RA, HAY LÀ TỪ NƯỚC NGOÀI ĐƯA VÀO


“Công Hầu Bá Tử Nam” 公侯伯子男 là chế độ tước vị thời cổ của Trung Quốc, và ở phương tây cũng có chế độ đặc quyền “Công tước”, “Bá tước” hoặc “Nam tước”. Thế thì tại Trung Quốc vốn đã có, hay là sau này từ phương tây đưa vào?

“Công Hầu Bá Tử Nam” là chế độ tước vị thực hành sớm nhất ở Trung Quốc. Theo Thông Điển – Chức Quan – Phong tước 通典 - 职官 - 封爵 có nói:

Thời Hoàng Đế, chế ra vạn dặm, làm vạn quốc, mỗi quốc 100 dặm.


Thời Đường Ngu, Hạ: kiến quốc có 5 bậc: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam.

Thời Ân có 3 bậc: Công, Hầu, Bá. Công 100 dặm, Hầu 70 dăm, Bá 50 dặm.

Thời Chu có 5 bậc: Công, Hầ,u Bá, tử, Nam. Công và Hầu 100 dặm, Bá 70 dặm, Tử và Nam 50 dặm. Chu Công cải chế, Công 500 dặm, Hầu 400 dặm, Bá 300 dặm, Tử 200 dặm, Nam 100 dặm.



Trong Mạnh Tử - Vạn Chương 孟子 - 万章 có nói:

Thiên tử một, Công một, Hầu một, Bá một, Tử và Nam là một, tất cả là 5 bậc.

Quân một, Khanh một, Đại phu một, Thượng sĩ một, Trung sĩ một, Hạ sĩ một, tổng cộng là 6 bậc.

Theo chế độ, đất của thiên tử vuông ngàn dặm, đất của tước Công và tước Hầu đều 100 dặm, đất của tước Bá là 70 dặm, đất của tước Tử và tước Nam 50 dặm, tổng cộng có 4 bậc.


Nước chưa đến 50 dặm thì không triều cống thiên tử, mà là phụ thuộc vào một chư hầu nên gọi là nước phụ dung. Quan Khanh của thiên tử nhận đất phong ngang bằng với tước Hầu, Đại phu nhận đất phong ngang bằng với tước Bá, quan Sĩ nhận đất phong ngang bằng với tước Tử, tước Nam.

Tước vị khác nhau tuy phạm vi đất phong lớn nhỏ khác nhau, nhưng đại thể địa vị và quyền lợi trong nước lại ngang nhau, chỉ có sự đãi ngộ có sự sai biệt ở một trình độ nhất định về lễ tiết. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, tước vị được phân trong nội bộ chư hầu quốc có 3 cấp Khanh, Đại phu, Sĩ, mỗi cấp lại phân làm 3 bậc thượng, trung, hạ. Các nước, tuỳ theo sự lớn nhỏ của mỗi nước mà có sự đãi ngộ khác nhau. Như trong Tả truyện 左传 có nói:


Địa vị của Thượng khanh thứ quốc tương đương với Trung khanh của đại quốc; địa vị của Trung khanh thứ quốc tương đương với Hạ khanh của đại quốc; địa vị của Hạ khanh thứ quốc tương đương với Thượng đại phu của đại quốc. Địa vị của Thượng khanh tiểu quốc tương đương với Hạ khanh của đại quốc; địa vị Trung khanh của tiểu quốc tương đương với Thượng đại phu của đại quốc; địa vị Hạ khanh của tiểu quốc tương đương với Hạ đại phu của đại quốc.

Những quy định đó, các đời sau có sự thay đổi tồn tại và diễn hoá.


Xã hội phong kiến phương tây cũng tồn tại chế độ tước phong như thế, nhưng những danh từ “Công tước”, “Bá tước” này chỉ là Trung Quốc dựa theo thuật ngữ văn hoá Hán ngữ mà phiên dịch qua. Ví dụ lấy chế độ tước vị của nước Anh, chế độ ngũ tước bao gồm:

Duke (Công tước)
Marquess (Hầu tước)
Earl (Bá tước)
Viscount (Tử tước)
Baron (Nam tước).
Ở dưới còn có các xưng hiệu như:
Baronet (Tùng Nam tước)
Knight (Kị sĩ)


Nước Pháp cũng tương tự như thế. Các nước khác như nước Đức phân tước vị ra làm 15 bậc, Ba Lan thì có 4 bậc (không có Tử tước), Hungary có 3 bậc, không có Hầu tước và Tử tước.


Có thể thấy chế độ phong tước “Công Hầu Bá Tử Nam” trước triều Chu đã tồn tại rộng rãi, phương tây cũng tồn tại chế độ phong tước, nhưng giữa chúng không tồn tại quan hệ truyền thừa.



Dịch giả: Huỳnh Chương Hưng
Nguyên tác Trung văn
Trong quyển
THÚ VỊ VĂN HOÁ TRI THỨC ĐẠI TOÀN
趣味文化知识大全
Thanh Thạch 青石 biên soạn
Trung Quốc Hoa kiều xuất bản xã, 2013

TAY KHÔNG BẮT CHÚ CUA DỪA "QUÁI VẬT" TRÊN ĐẢO GIÁNG SINH, AUSTRALIA

Thoạt nghe thì cái tên “cua dừa” có vẻ khá dễ thương, nhưng loài cua khổng lồ trên đảo Giáng Sinh ở Australia này dường như lại bước ra từ một bộ phim kinh dị nào đó…
Vị khách du lịch bạo dạn Mark Pierrot đang du lịch ở đảo Giáng Sinh, Australia thì bắt gặp một loài động vật hoang dã đặc biệt ở địa phương này. Hình thù của nó khiến ai trông thấy cũng đều nổi da gà.
Có thể nói, Australia là nhà của một số loài động vật đáng sợ và nguy hiểm nhất trên thế giới, trong đó bao gồm cá mập, rắn độc, thằn lằn và nhện, một số trong đó thậm chí còn tự do làm khách không mời ở nhiều hộ gia đình.
Nhưng có lẽ giải Nhất thuộc về loài động vật giáp xác to lớn này…
Làm quen với Birgus latro, loài cua dừa khổng lồ, được biết đến là động vật chân đốt lớn nhất sống trên cạn trên Trái Đất.

(Ảnh: Plotr Naskrecki, Minden Pictures)

Anh Pierrot đã bắt gặp chú cua giống như sinh vật ngoài hành tinh này trong khi đang đi dạo trong rừng. Tuy rằng nó có diện mạo kinh hoàng cùng với những chiếc càng khổng lồ, nhưng anh đã nhấc nó lên và không làm tổn hại đến nó.
Vị khách du lịch Mark Pierrot đang cầm chú cua dừa khổng lồ trước ống kính máy ảnh.

(Ảnh: Internet)

Được xem là động vật chân đốt sống trên cạn lớn nhất trên thế giới, chú cua dừa này có thể phát triển tới chiều dài gần 1 mét và trọng lượng khoảng 4 kg.
Loài cua ẩn cư này giống như một chú nhện biến dạng vì lạm dụng thuốc kích thích, chủ yếu được tìm thấy ở các hòn đảo xung quanh Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Đúng như tên gọi ‘cua dừa’, khẩu phần chính của nó là cùi dừa. Với những chiếc càng mạnh mẽ, nó dễ dàng làm quả dừa nứt mở ra. Tuy nhiên, nó cũng ăn chuột, các loại trái cây, những con cua khác và cả động vật chết.
Nhưng may thay, không bao gồm con người trong đó

(Ảnh: Shutterstock)

Theo người dân địa phương, cua dừa rất nhanh nhẹn. Loài sinh vật ‘lén lút’ này có thể leo lên cây với tốc độ đáng kinh ngạc và thậm chí còn ‘ăn cắp’ nhiều thứ xung quanh, như thức ăn của con người, khoan, xẻng và một lần, theo truyền thuyết của thành phố, nó đã ‘ăn cắp’ súng của một người lính.

(Ảnh: Shutterstock)

Theo báo cáo, đảo Giáng sinh của Australia là nhà của hơn một triệu chú cua dừa, vốn được coi như ‘đặc sản du lịch’. Tuy nhiên, chúng là một loài được bảo vệ trên đảo, nơi đây, hành vi săn bắt hay ăn thịt chúng của bất kỳ ai là bất hợp pháp và bị phạt nặng.
Ở những nơi khác trên thế giới, cua dừa có nguy cơ tuyệt chủng bởi thịt mềm của loài cua ‘quái vật’ này được coi như một món ăn ngon.
1 chú cua dừa với hoa văn “4423” trên lưng

(Ảnh: Stephen Belcher, Minden Pictures, Corbis)

Nếu bạn muốn có bức ảnh một-lần-trong-đời với loài sinh vật đáng sợ này, hãy du lịch tới đảo Giáng Sinh và hạ quyết tâm bắt lấy một chú cua dừa, giống như anh chàng Mark Pierrot.


Theo Elitereaders

Thanh Hoa




Thứ Ba, 1 tháng 11, 2016

LUẬN BÀN VỀ "CON & CÁI"

Hôm nay lang thang trên mạng ta bà, tình cờ đọc được một câu chuyện vui trong blog cùa BS Thy Anh, bài viết là một lá thơ gởi cho anh với cái tựa đề

BÁC CÀ CUỐNG LUẬN BÀN VỀ "CON & CÁI"

Kính bác sỹ,

Đã nói là tiếng Việt mình vô cùng phong phú mà, cứ động não mà diễn giải, cả tháng cũng không hết chuyện, ngay như cái chữ "ăn", cũng còn rất nhiều, như ăn người, ăn vặt, ăn tiền, ăn non, ăn bẩn, ăn trên ngồi trốc, ăn tục nói phét, ăn ốc nói mò, ăn nên làm ra, ăn đứng ăn ngồi, ăn lông ở lỗ, v.v... và v.v...

Nói tới tiếng Việt phong phú, Cà Cuống tui lại chợt nhớ tới mẩu chuyện vui vui, tôi đã phóng tác từ lâu, nhưng quên luôn, nhờ nhận được email này Ðàn ông và chữ “Ăncủa bác sỹ gợi ý, mới chợt nhớ lại, xin đáp lễ bác sỹ và kể hầu bà con trong và ngoài CLB nghe chơi, nghe qua rồi bỏ :



Có một anh Mẽo trước kia đã từng ở Việt nam, may mắn cưới được một cô vợ Việt thiệt xinh đẹp dễ thương. Anh cảm thấy vô cùng hạnh phúc, nên cố gắng hòa mình với vợ và gia đình bên vợ, như nhậu tiết canh vịt với ba xi đế cùng ông bố vợ, ăn lòng heo chấm mắm tôm chanh ớt, ăn cả chuột đồng, rùa, rắn, v.v... Nói tóm lại là bố vợ Việt nhậu gì, chàng rể Mẽo cũng theo sát nút, nên không những được vợ thương, mà luôn cả gia đình nhà vợ cũng mến. Để có thể dễ dàng tâm tình với vợ hơn, Anh còn cố gắng học tiếng Việt
với sự khuyến khích và hướng dẫn tận tình của vợ, nguyên xuất thân là một cô giáo trường làng. Cuối tuần nọ, anh chở vợ đi picnic ngoài trời. Khi xe băng qua một cây cầu, nhìn xuống con sông bên dưới thiệt đẹp, anh buột miệng khen :

- Mình coi, cái sông này đẹp quá !

Cô vợ sửa liền :

- Mình phải nói là "con" sông, chứ không thể gọi là "cái" sông được.

Anh chồng cứ lẩm nhẩm hoài cho khỏi quên. Tới khi thấy một hồ nước trong xanh thiệt đẹp, hai vợ chồng nhất trí dừng lại bên bờ nơi có cây cao bóng mát, bày đồ ăn trưa ra vừa ăn vừa thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên. Anh chồng bỗng lên tiếng ca tụng :

- Chà, con hồ này coi mát mắt quá, mình nhỉ.

Tưởng là được vợ khen vì mới học được chữ con, ai ngờ bị vợ dạy liền :

- Mình phải nói là "cái" hồ, chứ không thể gọi là "con" hồ được.

- My Goodness ! Sao mà rắc rối quá vậy, cùng là nước cả, mà lúc thì gọi là con, lúc khác lại kêu là cái, làm sao anh hiểu được.

- Bình tĩnh đi, để em phân tách mình nghe, mình sẽ nhớ ngay khi nào là con, khi nào là cái, dễ ợt à, không lẫn lộn được đâu, và cũng chẳng có gì rắc rối. Đồng ý cùng là nước cả, nhưng chỗ nào hay vật gì có chuyển động thì gọi là "con", như con sông, con suối, vì có dòng nước chẩy; hay như con gà con vịt, con dê, con ngỗng, vì có chạy tới chạy lui; còn chỗ nào hay vật gì đứng im không chuyển động, thi kêu là "cái", chẳng hạn như cái hồ, cái ao, vì mặt nước đứng im phẳng lặng như tờ ; hay như cái bàn, cái ghế, cái tủ, cái giường, vì tự nó không xê dịch được, v.v... Hiểu chưa, mình ?

Vật gì đứng im không chuyển động, thi kêu là "cái", chẳng hạn như cái hồ, cái ao . . .
- Hiểu rồi, cám ơn mình đã giải thích rất rõ ràng dễ hiểu, hèn chi của anh nó cứ nhúc nhích hoài nên gọi là con, còn của mình, nó cứ ỳ ra, không nhúc nhích cụ cựa gì hết, nên mới gọi là cái, đúng không, mình?

Cô vợ, đỏ mặt, nhéo cho ông chồng Mẽo một phát đau điếng, nhưng cũng phải thầm phục chồng mình thật là sáng trí.

Cám ơn bác sỹ đã chia sẻ, và xin được chia sẻ tiếp để bà con bằng hữu cùng có dịp cười cho dzui dzẻ cả.

Chúc luôn vui cười,


Cà Cuống


BA BÀ HOÀNG HẬU

Ngày xửa, ngày xưa, có một ông vua trẻ. Đức vua cai trị một vương quốc giàu có, xinh đẹp, nhưng đẹp nhất có lẽ là ba bà hoàng hậu của đức vua. Ba vị hoàng hậu này vừa có sắc lẫn có tài, nên cả ba đều được đức vua sủng ái như nhau, "Mỗi người một vẻ, mười phần vẹn mười". Cho đến một hôm, nhà vua bỗng nảy ra một ý nghĩ: “Trong ba mỹ nhân này thế nào cũng có một người tuyệt diễm hơn hai người kia, nhưng ta không tài nào nhận ra được, có lẽ vì mình nhìn mãi nó quen mắt đi chăng? Hay là ta hỏi ý kiến bọn cung phi vậy”.
Đức vua bèn mở cuộc trưng cầu dân ý tại hậu cung để tìm xem trong ba mỹ nhân ai là người đẹp nhất. Kết quả cũng không lấy gì làm sáng sủa cho lắm, vì ai cũng cho rằng cả ba vị hoàng hậu đều đẹp ngang nhau. Kẻ tám lạng, người nửa cân vậy. Nhà vua lại đem nội vụ ra bàn với đình thần. Kết quả cũng tương tợ như trên. Quan tể tướng khuyên đức vua nên dừng cuộc giảo nghiệm lại, vì e nó chẳng ích lợi gì mà đôi khi mang đến hậu họa khó lường được. Thay vì nghe lời khuyên sáng suốt của vị trung thần lão thành ấy thì đức vua của chúng ta lại nổi cơn thịnh nộ, truyền lịnh cho quan tể tướng phải giải quyết cho xong công việc trong vòng ba hôm. Sau một lúc im lặng, quan tể tướng kính cẩn tâu:
- Muôn tâu bệ hạ, thần trộm nghĩ rằng, bọn hạ thần chỉ sở trường về chuyện cung kiếm văn thơ, còn chuyện đẹp xấu tướng hảo ra sao thì chắc phải nhường cho các vị bốc sư nổi tiếng. Hay là bệ hạ cho mời y vào, y sẽ phân biệt rõ ràng hơn không?


Nhà vua nguôi giận. Một ông thầy bói được lập tức triệu vào cung để chiêm ngưỡng dung nhan ba người đẹp. Vị bốc sư không chịu cho biết kết quả ngay mà xin khất lại ngày hôm sau để về "tra tự điển" lại.
Lão bốc sư đi rồi, quan tể tướng bèn tâu nhỏ với đức vua:
- Muôn tâu thánh thượng! Hạ thần trộm nghĩ rằng qúi đức bà, mỗi người có một vẽ đẹp riêng, tùy theo nhãn quan và sở thích của từng người. Ý kiến của chúng thần có thể bất đồng nhau, nhưng vì sợ uy quyền của quí đức bà, nên bọn hạ thần không dám nói lên ý kiến của mình mà chỉ kết luận chung chung rằng, cả ba đức bà đều tài sắc như nhau. Nếu thần không lầm thì lão bốc sư này cũng lâm vào một tình thế khó xử như bọn hạ thần, nên lão mới xin khất lại vào ngày mai đó thôi.
- Thế thì khanh giải quyết bằng cách nào?


- Muôn tâu! Ngu thần có một kế mọn là bệ hạ giả mạo bức thư, ký tên của ba đức bà, hẹn lão ấy đến ba địa điểm riêng. Nếu y đến địa điểm nào thì đức bà ấy sẽ là người đẹp nhất.
- Hay lắm, khanh hãy thi hành ngay cho trẩm.
Ba bức thư tức tốc được gởi đi và lão bốc sư đi đến chỗ hẹn với bà hoàng đẹp nhất. Đức vua truyền lệnh chém đầu lão thầy bói... Và từ đó ngài đặc biệt sủng ái vị hoàng hậu vào chung kết nầy. Hai bà hoàng hậu còn lại vô cùng tức tối, họ âm mưu với nhau dùng độc dược giết chết bà hoàng hậu đẹp nhất. Chuyện bại lộ, đức vua truyền lệnh xử tử luôn hai bà hoàng hậu còn lại. Ba vị hoàng hậu xinh đẹp nhất nước đều chết hết, đức vua còn lại một mình để thấy hoàng cung sao mà trống trải lạnh lẽo, bất kể Xuân Hạ Thu Đông.
Lời bàn:
Em thân mến! Vạn pháp trên thế gian này, mỗi pháp đều có một đặc tính riêng, nhưng khi chúng ta bắt đầu "ưu tiên một" cho pháp nào, tức là để tâm vào nó, thì sự việc bắt đầu trở nên rắc rối. Có lẽ vì vậy mà đức Phật thường khuyên chúng ta là hãy để yên cho các pháp trụ ở bản vị của nó. Chớ xen vào phân biệt để tự chuốc khổ cho mình và làm di hoạ cho người chung quanh.


Cũng thế, trong cuộc tương giao với bạn bè lân cận, mỗi người bạn của chúng ta đều mang một cái tính riêng biệt, chiếm một vị trí, cách thế khác nhau, chẳng ai giống ai. Và chúng ta cũng khó mà kết luận rằng ai quan trọng hơn ai. Mùa Xuân có hoa lan, mùa Thu có hoa cúc, mỗi loài hoa đều có hương sắc riêng của nó, không thể nào bắt loại hoa này phải bắt chước hoa kia được. Em có thấy rằng số phần rủi ro luôn luôn đến với người mà chúng ta đặc biệt ưu ái hay không?
Vậy thì, ta có nên ngu muội đem cái ý thức phân biệt của mình xen vào các mối tương giao ấy, để cảm thấy cuộc đời này sao mà lạnh lẽo bất kể bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông hay không?
Như Thủy
(Sưu tầm trên mạng)


THÚ VỊ ĐẶC SẢN "TUNG LÒ MÒ" CỦA NGƯỜI CHĂM Ở AN GIANG

Trong các loại thịt khô thì mình thường hay nghe nói và biết món lạp xưởng heo, vịt khô, thịt ba rọi khô nhưng chưa nghe món lạp xưởng bò mà chỉ có món khô bò, hôm nay đọc bài viết này mới biết món đặc sản của người Chăm Nam bộ có món lạp xưởng bò. Mình chưa ăn qua nên không biết nó có giống loại Salami của người Âu châu hay không, vì salami được làm từ thịt bò, có trộn bột ớt nên cay lắm. Ở Úc có bán nhiều loại Salami lắm, mình thích nhất là xắt miếng xong chiên lại ăn và uống bia là ngon nhất.
Người Chăm ở Việt Nam được chia thành 3 nhóm cộng đồng chính là: Chăm H'roi, Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận, và Chăm Nam Bộ.
Chăm H'roi bao gồm những người Chăm sống rải rác ở miền núi các tỉnh Phú Yên, Bình Định; tổng số khoảng 20.500 người. Người Chăm Hroi có nguồn gốc từ những người Chăm cổ là một bộ phận của cộng đồng Chăm Việt Nam và từ lâu được gọi là Chăm Hroi. Người Chăm Hroi theo tín ngưỡng dân gian chịu ảnh hưởng từ đạo Bàlamôn.
Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận hay Đông Chăm gồm những người Chăm cư trú ở Ninh Thuận, Bình Thuận, có tên gọi là Campaduraga; tổng số khoảng 98.000 người (Ninh Thuận: 66.000; Bình Thuận: 32.000), đây là nhóm cộng đồng Chăm lớn nhất chiếm khoảng 67,60% tổng số người Chăm ở Việt Nam. Người Chăm Ninh Thuận-Bình Thuận có hai nhóm chính phân theo tín ngưỡng là Chăm Ahiêr (Chăm Bàlamôn) và Chăm Awal (Chăm Bàni). Ngoài ra còn có một nhóm nhỏ người Chăm Bàni đã cải sang theo Hồi giáo chính thống vào thập niên 1960 do tiếp xúc với người Chăm Nam Bộ.
Chăm Nam Bộ hay Tây Chăm bao gồm những người Chăm sinh sống chủ yếu ở An Giang, thành phố HCM, Tây Ninh; tổng số khoảng 26.700 người. Cộng đồng này đến từ Campuchia, và có nguồn gốc xa hơn nữa lại từ Nam Trung Bộ Việt Nam như hai cộng đồng trên. Sự hình thành nhóm Chăm Nam Bộ khởi đầu từ năm 1819, khi vị tướng triều Nguyễn Thoại Ngọc Hầu bắt đầu huy động sức người để đào kênh Vĩnh Tế, đã có nhiều người Chăm từ Campuchia được tuyển mộ, sau khi con kênh được đào xong họ được thưởng công và cấp đất sinh sống tại đây nên còn được gọi là Chăm Châu Đốc. Sau đó tiếp tục có thêm người Chăm từ Campuchia tới, cũng như nhiều người Chăm Châu Đốc tới sống ở các tỉnh Nam Bộ khác. Trong nhóm người Chăm này có một thành phần là người gốc Malaysia được gọi Chăm Chà-và (liên hệ tới đảo Java, do không phân biệt được người Java tới từ Indonesia và người Mã lai nên hai nhóm này được gọi chung là Java). Người Chăm Nam Bộ theo Hồi giáo chính thống nên còn được gọi là Chăm Islam.
Cái món lạp xưởng bò này được làm từ người Chăm Nam bộ vì họ theo đạo Hồi nên không ăn thịt heo. Bây giờ chúng ta cùng nhau tìm hiểu xem sao:



THÚ VỊ ĐẶC SẢN "TUNG LÒ MÒ" CỦA NGƯỜI CHĂM Ở AN GIANG
Tung lò mò đích thị là lạp xưởng bò. Nhưng lạp xưởng bò chưa hẳn là tung lò mò. Một món ăn phổ biến nhưng đầy cá tính, mang đậm triết lý của người Chăm theo đạo Hồi (để phân biệt với người Chăm theo đạo Bà La Môn ở miền Trung).
Từ Châu Đốc (An Giang), qua phà vượt dòng Châu Giang, bạn sẽ thấy khung cảnh khác biệt với những thánh đường sầm uất của những người Chăm theo đạo Hồi. Những người Chăm mà chúng tôi gặp ở đây bảo rằng cộng đồng của họ là những người hiền, rất hiền. Trai tráng ít khi rượu chè, cũng không hay to tiếng. Anh Ju Sô (ấp Phủm Soài, xã Châu Phong, Tân Châu, An Giang) bảo rằng người Chăm ở đây đang rất giữ bản sắc của dân tộc mình, từ cách ăn mặc đến ăn uống.
Trong ẩm thực của người Chăm theo đạo Hồi tuyệt đối không có món thịt heo hoặc các sản phẩm từ heo. Ngược lại, người Chăm theo đạo Hồi rất sành ăn thịt bò, họ xem đó là thực phẩm chính của mình. Thịt bò trong thực đơn của họ được chế biến rất nhiều món. Tróng đó, nổi tiếng nhất là tung lò mò.
Theo anh Mohamach Solel (54 tuổi), món tung lò mò ra đời từ tập quán tín ngưỡng của người Chăm ở An Giang. Vào dịp tết Hajih của người theo đạo Hồi, những người có điều kiện lấy thịt bò để cúng và chỉ có thể cúng đúng 7 người, gồm tổ tiên, ông bà, cha mẹ… Cúng xong, họ tổ chức xẻ thịt bò để phân phát cho hàng xóm, chia cho nhà nghèo.
Do vào ngày ấy trong cộng đồng có rất nhiều gia đình có thịt bò, nên trong thời gian ngắn, họ không thể nào tiêu thụ hết. Việc bảo quản số thịt còn lại là điều khó khăn. Nên những người có kinh nghiệm đã nảy ra ý dồn thịt vào ruột bò rồi đem phơi, vừa tránh ruồi nhặng, vừa bảo quản được lâu.
“Tung lò mò là tiếng Chăm, tung nghĩa là ruột, còn lò mò nghĩa là thịt bò. Có nghĩa là thịt trong ruột bò, vậy thôi”, Mohamach Solel giải thích.



Ban đầu, tung lò mò chỉ là hình thức bảo quản thịt bò. Dần về sau, nó được nâng tầm thành món ăn và hiện tại đây là món đặc trưng, nổi tiếng nhất của người Chăm theo đạo Hồi.
Mohamach Solel kể, ngày trước, tung lò mò chủ yếu dùng cho cộng đồng Chăm, giống như món mắm, món khô vậy. Người Kinh đến nhà người Chăm chơi, được thiết đãi món tung lò lò, họ tỏ ra rất thích thú. Sau đó, nhiều người Kinh đã tìm đến hỏi mua tung lò mò nhưng người Chăm chỉ cho, không bán.
Nhưng ngày càng nhiều người đến hỏi mua, “cho không xuể”, nên người Chăm mới tính chuyện làm tung lò mò bán cho người Kinh. Từ đó, món ăn vốn xuất phát từ cộng đồng người Chăm đã vang xa khắp nơi. Nhiều người tìm đến mua. Thậm chí, có nơi người ta cũng tự làm, coi đó là lạp xưởng bò.
“Tung lò mò là lạp xưởng bò. Nhưng lạp xưởng bò chưa hẳn là tung lò mò. Bởi nó phải được chế biến theo cách của người Chăm, theo triết lý của người Chăm… mới là tung lò mò. Tung lò mò của người Chăm thì người xứ khác ăn được. Nhưng lạp xưởng bò của người xứ khác thì người Chăm ăn không được. Dù hình thức nhìn có vẻ giống nhau, nhưng người Chăm thì biết chúng khác nhau”, Mohamach Solel nói.
Mohamach Solel không giấu cách chế biến tung lò mò, vốn là bí quyết của gia đình anh. Ban đầu ruột bò cạo sạch, phơi khô. Sau đó trộn thịt, mở bò, cơm nguội, gia vị, men, lá chiên… rồi dồn vào ruột bò khô đem phơi. Tung lò mò phải được phơi trọn một nắng mới ngon. Còn phơi gặp mưa, để hôm sau phơi tiếp thì không ngon bằng.
Một tín đồ đạo Hồi giải thích, người Chăm theo đạo Hồi không ăn tiết của động vật. Động vật còn sống thì ăn, con nào đã chết rồi thì bỏ chứ không ăn, không bán. Con vật do người ngoại đạo giết thịt, người trong đạo cũng không được ăn, đó là nguyên do vì sao người đạo Hồi không ăn tung lò mò của nơi khác làm. Ngoài ra, lạp xưởng bò của nơi khác làm còn pha cả thịt heo vào, đó là điều tối kỵ của người đạo Hồi.
Tung lò mò trong cách chế biến của người Chăm cũng khác lạp xưởng bò. Ngay từ chuyện rửa thịt, người đạo Hồi quan niệm rửa thịt không được để nước động mà phải xối từ trên xuống theo một dòng. Nếu rửa bằng thau, bằng bồn thì cũng phải xối lại, bảo đảm rằng không còn máu động vật tồn đọng trong thịt.



"Chính từ khắc khe trong việc chế biến, nên tung lò mò của người Chăm bao giờ cũng là món ăn sạch tuyệt đối”, chị Sa Li Kho - một người Chăm ở Châu Phong giải thích.
Tung lò mò được chế biến đơn giản, chủ yếu dùng nướng, chiên với nước lã hoặc hấp chính là ăn được. Tung lò mò ăn với cơm là “ngon cứng lưỡi”. Món này có độ thơm ngon, béo, bùi… không lẫn lộn với bất cứ món lạp xưởng bò nào khác.
Tiến Trình (theo iHay)

ĐÀN ÔNG VÀ CHỮ "ĂN"

Người ta đã thống kê được rằng, cuộc đời một người đàn ông hầu hết gắn bó với chữ “ăn.


Nghiên cứu 1:

Người ta đã thống kê được rằng, cuộc đời một người đàn ông hầu hết gắn bó với chữ “ăn”.

1. Khi còn bé thì “ăn học

2. Lớn thêm chút nữa thì “ăn chơi

3. Lúc có bạn gái thì chăm chăm tìm cách “ăn thịt”.

4. Ăn thịt xong thì phải “ăn hỏi” rồi “ăn cưới”, cưới về phải tiến hành “ăn nằm”.

5. Khi vợ đến kỳ sinh đành phải “ăn chay” hoặc "ăn vụng", sau khi vợ sinh em bé thì phải “ăn kiêng”, về già rụng răng phải “ăn cháo”, xa thêm tí nữa thì theo các cụ mà “ăn xôi”…



Nghiên cứu 2:

1. Hồi nhỏ thì "ăn vóc học hay", xin tiền cha mẹ mua quà không được thì "ăn vạ". Gặp cha mẹ nghiêm khắc thì có khi "ăn đòn".

2. Lớn lên học đòi thì bắt đầu "ăn diện" để tán gái, nhưng "ăn nói bậy bạ" thì có khi "ăn bạt tai"

3. Khi đã có vợ, sau một thời gian "ăn nằm" thì có khi "ăn năn đã muộn", và nghĩ rằng mình phải "ăn đời ở kiếp" với người này thì xem như "ăn cám hay ăn khế trả vàng" hay đúng là số "ăn mày".


4. Khi "ăn nên làm ra" thì "ăn sung mặc sướng", rồi sanh tật "ăn gian", nói dối vợ là đi "ăn cơm khách" nhưng thực ra là đi "ăn vụng" hay gọi là "ăn bánh trả tiền", trót lọt thì không sao, rủi đổ bể thì có mà "ăn cám" hoặc "bỏ ăn".

5. Khi thất nghiệp thì sẽ có lắm điều tệ hại :

    a. hơi tệ: "ăn không ngồi rồi", "ăn theo", "ăn bám", "ăn hại".
    b. khá tệ: "ăn quỵt", "ăn mày".
    c. quá tệ: "ăn trộm", "ăn cắp", "ăn cướp"

6. Khi cờ bạc (đánh cờ, đánh bạc), đang thắng lớn (xem như là vét sòng) bỗng đứng dậy ra về gọi là "ăn xi non",  không cho người ta cơ hội gỡ gạc.

Thế nhưng, "ăn xi non" mà còn vênh váo, cười ngạo nghễ thì có khi "ăn đấm", "ăn đá".


Và còn nhiều cái "ăn" nữa chờ bạn khám phá!

(Sưu tầm trên mạng)

KHÔNG NHẤT THIẾT LÚC NÀO CŨNG PHẢI LÀ NGƯỜI CHIẾN THẮNG

Những người luôn có khuynh hướng quá cạnh tranh với người khác hay những người lúc nào cũng muốn chiến thắng đều luôn cảm thấy bị thua thiệt và không bao giờ cảm thấy hạnh phúc trọn vẹn cho dù kết quả có thế nào đi nữa.
Nếu thất bại, họ sẽ hết sức thất vọng, còn nếu chiến thắng thì đối với họ, đó là chuyện hiển nhiên và cũng chẳng có gì đáng để vui mừng cả.

Có một điều mà những người như vậy không nhận ra là: niềm vui thật sự chỉ có được khi bản thân mỗi người vượt qua được chính mình của ngày hôm qua chứ không phải là vượt hơn người khác.

(Sưu tầm trên mạng)