Thứ Ba, 29 tháng 11, 2016

KÊ KHUYỂN BẤT NINH

Thành ngữ Trung Hoa
KÊ KHUYỂN BẤT NINH
雞犬不寧
Chữ Kê tức là gà, còn Khuyển là chó, ý của câu thành ngữ này là chỉ Gà Chó cũng không được yên, miêu tả bị quấy nhiễu, không được yên ổn.
Câu thành ngữ này có xuất xứ từ truyện "Người bắt rắn nói" của Liễu Tông Nguyên triều nhà Đường.
Thời nhà Đường, nhằm trù bị chi phí quân dụng và thỏa mãn lòng tham vô đáy của mình, tầng lớp thống trị đã ra sức bóc lột thậm tệ, khiến đời sống nhân dân vô cùng cực khổ.
Năm đó, nhà văn nổi tiếng triều nhà Đường Liễu Tông Nguyên bị giáng chức xuống làm Tư mã ở Vĩnh Châu. Ông đã tận mắt chứng kiến cuộc đời nghèo khổ của nhân dân, đã viết ra mẩu truyện "Người bắt rắn nói", để phê phán xã hội đen tối thời bấy giờ.


Truyện "Người bắt rắn nói" đã kể về cuộc đời cực khổ của một người bắt rắn. Nhà anh này ba đời đều sống bằng nghề bắt rắn. Ông và cha đều đã bị rắn độc cắn chết, nhưng anh ta vẫn kiên trì sống bằng nghề bắt rắn. Vậy tại sao anh ta lại không chịu bỏ cái nghề bắt rắn vừa khó nhọc lại vừa nguy hiểm này? Anh nói: "Tuy nghề bắt rắn vừa vất vả vừa nguy hiểm, nhưng so với nghề làm ruộng thì còn khá hơn nhiều. Những người hàng xóm của tôi sống bằng nghề đồng áng, người cùng thời với ông tôi thì hiện nay chỉ còn lại một nhà; Còn người cùng thời với cha tôi thì trong mười nhà chỉ còn lại hai ba nhà. Còn người cùng thời với tôi sống trong 12 năm qua, thì mười nhà cũng chỉ còn lại có bốn năm nhà. Họ ra đi lánh nạn hoặc di dời sang nơi khác. Đó là vì các quan lại thường vào làng thúc thuế, không những đã khiến người nơm nớp lo sợ, mà ngay đến gà chó cũng không được yên. Còn chúng tôi thì khác, mỗi năm chỉ cần bắt mấy con rắn độc là được. Cho nên tôi không muốn bỏ nghề này".

Hiện nay, người ta vẫn thường dùng câu "Kê khuyển bất ninh " để miêu tả sự nhiễu loạn, không được yên ổn.
(Sưu tầm trến mạng)

CƠ HỘI THỨ HAI

Vài tuần trước, James đã bỏ học để làm công việc giao nhận bánh pizza. Tất cả thầy cô của cậu trước đó và những người thuê cậu làm việc đều nhận xét James là một chàng trai hòa nhã, chịu khó, duy chỉ có điều là James dường như không thể vượt qua những áp lực tâm lý của tuổi mới lớn. Cuộc sống của cậu cứ thế trôi qua thật nhanh mà chẳng biết rồi sẽ về đâu, mặc cho người mẹ vẫn âm thầm cầu nguyện cho cậu.
Ngày ngày, James vẫn tận tụy chở những phần bánh pizza nóng hổi từ lò nướng giao cho khách hàng. Cho đến một hôm, trên đường đi giao bánh, cậu trông thấy phần đuôi của một chiếc Cadillac đang chìm. Chiếc xe đang chìm rất nhanh cùng với một cụ già còn kẹt lại bên trong. Không chút do dự, James lao mình xuống nước. Người bị kẹt bên trong chính là vị Cha cố đáng kính Max Kelly. Ông đã bất tỉnh. Khi đứng trên mui xe, James phát hiện thấy ô cửa kính phía sau dường như để mở. Thế là, cậu cố hết sức kéo Cha cố ra khỏi xe rồi đưa ông lên bờ.
Sau khi James cứu sống vị Cha cố đó, cảnh sát đề nghị đưa cậu về nhà. Nhưng James từ chối, bảo rằng mình còn phải lái xe đi giao bánh pizza. Vốn tính cẩn thận, James đã nhờ họ thông báo cho cửa hàng để chuyển lời đến những vị khách của cậu rằng bánh pizza sẽ đến hơi trễ và hơi nguội một chút.
Tháng 12 năm 1995, James Hogan được trao tặng huy chương Carnegie vì nghĩa cử anh hùng của mình, cùng với số tiền 2.500 đô la và một suất học bổng. James nói rằng, biến cố này đã làm thay đổi cuộc đời cậu. Chỉ mới hai tuần trước sự kiện đó, cậu đã có lúc cầm lấy khẩu súng của cha để lại, chĩa vào đầu mình với ý định tìm đến cái chết. Nếu như lúc đó viên đạn không bị kẹt thì James đã không thể có mặt để cứu vị Cha cố rồi.
Những lời nguyện cầu của mẹ cậu đã được đáp lại. James quay trở lại trường, theo học các lớp phụ đạo để bắt kịp bạn bè và còn tham gia luyện tập trong đội bóng chày. Tình yêu thương tràn đầy và sự động viên to lớn của mọi người xung quanh đã đem đến cho cậu một ý nghĩa, một mục đích sống mới, và cả một cơ hội thứ hai thật xứng đáng.
Joanie Nietsche
Bạn sẽ không bao giờ biết được một việc làm tốt tưởng như rất đỗi bình thường sẽ mang lại niềm hạnh phúc như thế nào đâu.



SECOND CHANCE

They say God works in mysterious ways. Sixteen-year-old James Hogan had no idea God was about to intervene in his life. He'd dropped out of school a few weeks earlier and had a job delivering pizzas. Described by his teachers and employers as a courteous, hard worker, James just couldn't seem to handle the pressures of adolescence. His life was going nowhere fast despite the silent prayers of his mother.
Always conscientious, he delivered pizzas hot from the oven until the day he saw the back of a Cadillac sinking into a small pond. The car was going down fast with an elderly man inside. Without hesitation, James slammed his delivery truck to a stop and leaped into the water. Trapped inside was the Reverend Max Kelly. He was unconscious. James, standing on the back of the car, saw that a rear window had somehow opened. He pulled the elderly man out and brought him to shore.
After the rescue, the police offered James a ride home. He declined, stating that he had his truck to drive and pizza to deliver. Ever conscientious, he did ask them to radio the restaurant to notify his customers that their pizzas would be a little late and a little cold.
In December of 1995, James Hogan was awarded the Carnegie Medal for heroism which included $2500, a medal and a scholarship. James says the incident has changed his life. Just two weeks before the accident, he had held a gun to his head wanting to die. He wouldn't have been there to save the Reverend's life had the gun not jammed.


His mother's prayers answered, James is back in school, taking extra classes to catch up with his classmates and practicing for the baseball team. A huge public outpouring of love and support has given him a renewed meaning and purpose and a well-earned second chance.
Joanie Nietsche
Taken from "A Cup of Chicken Soup for the Soul"
(from the internet)

Thứ Hai, 28 tháng 11, 2016

NHỮNG NGHỊCH LÝ CỦA CUỘC SỐNG THỜI NAY

Mấy lời đúc kết từ cuộc sống tưởng chừng như vô thưởng vô phạt trên Facebook lại đang đánh trúng lòng người. Tôi thích nhất là câu "Hàng hoá chất đầy ngoài cửa tiệm nhưng tiền trong túi dân thì xẹp lép". Còn bạn thì sao?


Quan với dân

- Nói quá nhiều trên bàn nhậu nhưng vô hội nghị thì im như thóc.

- Lương tâm thì đem bán, cái ghế chạy đi mua.

- Lãnh đạo được quyền nói, nhưng đố ai được nói đến lãnh đạo.

- Mua chức thì rất dễ, nhưng từ chức lại vô cùng khó khăn.

- Báo cáo thành tích thì lãi lớn, báo cáo tài chính để chờ Chính phủ giải cứu thì lỗ nặng.

- Con người khác thất nghiệp mặc kệ, con cái mình chọn ghế giao quyền.

- Ăn của dân rất dễ, nhưng lo cho dân đủ ăn vô cùng khó.



- Có người ôm cả rừng luật nhưng xử theo luật rừng.

- Rất khó phục vụ nhân dân nhưng quá dễ để lòng dân không phục.

- Cống hiến mấy chục năm, nhưng phá sự nghiệp chỉ một vài chữ ký.

- Đời có vô số chốn quan trường, nhưng không có trường nào dạy làm quan.

- Quan nói 10, làm không được 1. Dân không được mở miệng, làm gấp ngàn lần.

- Dự án đang nhiều lên nhưng chỉ số ít được hoàn tất.

- Khi xin - cho thì tung hết võ mồm, nhưng có khuyết diểm không phát âm nỗi hai từ “xin lỗi”.

- Hàng hóa chất đầy ngoài cửa tiệm, nhưng tiền trong túi dân xẹp lép.



Người với người

- Nhiều việc làm dễ kiếm tiền nhưng mất nhiều tiền chưa dễ kiếm được việc làm.

- Sở hữu biệt thự, xe sáng choang, nhưng phát ngôn bị tối dạ.

- Nhiều cụ quá già mà lấy cô vợ còn nhỏ hơn tuổi cháu chắt.

- Nhìn ra cả thế giới nhưng khó nhận ra chính mình.

- Xây ngày càng nhiều cao ốc nhưng sự kiên nhẫn của con người lại ngắn hơn.



- Có nhiều tiện nghi hơn nhưng thời giờ ít ỏi hơn.

- Chúng ta thiết kế nhiều máy điện toán, chứa thật nhiều dữ kiện, in ra bao nhiêu tài liệu, nhưng sự truyền thông giữa con người lại càng sút kém đi.

- Nhiều người có nhiều bằng cấp hơn nhưng hiểu biết lại giảm đi.

- Biết cách kiếm sống nhưng không mấy ai biết sống. Một đời người được kéo dài hơn nhưng chỉ là cộng thêm những năm tháng mà thôi.

- Chúng ta đã lên đến mặt trăng và trở về lại trái đất nhưng rất khó bước qua bên kia bức tường để chào người hàng xóm mới.



- Chúng ta chia cắt được một hạt nguyên tử nhưng chưa phá được thành kiến của chính mình.

- Dường như sự đồng cảm đang ít đi, trong khi sự vô cảm lại gia tăng.

Cuối năm tôi chỉ ước một điều: Giá như những lý thuyết trên không là hiện thực!

Theo Một thế giới

MISO CHUA

Sư nấu bếp tại Dairyo, tu viện của thiền sư Bankei, quyết định là sư sẽ chăm sóc kỹ càng sức khỏe của lão sư phụ của mình và sẽ chỉ cho sư phụ ăn Miso tươi, làm từ đậu nành, lúa mì và men đánh nhuyễn và để lên men. Bankei, thấy là mình được phục vụ miso tốt hơn miso của các đệ tử, liền hỏi: “Ai là người nấu ăn hôm nay?”
Dairyo được gọi đến gặp thầy. Bankei nghe trình là theo tuổi tác và địa vị của thầy, Bankei chỉ nên ăn miso tươi. Cho nên Bankei nói với sư nấu ăn:“Vậy chú nghĩ là thầy không nên ăn gì hết.” Nói xong, Bankei bước vào phòng riêng và khóa cửa.
Dairyo, ngồi ngoài cửa, xin lỗi thầy. Bankei không trả lời. Cả bảy ngày, Dairyo ngồi bên ngoài và Bankei ở bên trong.
Cuối cùng, trong tuyệt vọng một đệ tử nói thật to cho Bankei: “Thầy có thể không sao, lão sư phụ, nhưng anh chàng đệ tử này phải ăn. Hắn không thể nhịn ăn mãi được!”
Đến lúc đó Bankei mở cửa. Thầy mỉm cười. Thầy nói với Dairyo: “Thầy nhất quyết ăn cùng loại thức ăn như những đệ tử thấp nhất của thầy. Khi chú trở thành sư phụ, thầy không muốn chú quên chuyện này.”


Bình:
• Bankei đây là Bankei yōtaku (eitaku), Bàn Khuê Vĩnh Trác, mà chúng ta đã nhắc đến trong truyện Giọng nói của hạnh phúc.
• Xem ra đây là một luật lệ ăn uống đã có sẵn trong tu viện nhưng Bankei không biết. Người đến tuổi nào đó và có chức vị nào đó thì được ăn uống loại thực phẩm nào đó. Đây là ăn uống theo “hệ cấp” và Bankei chống đối “hệ cấp”. Nếu Bankei yếu sức khỏe hay bệnh hoạn và đầu bếp nấu thức ăn đặc biệt để chữa bệnh, chắc là thiền sư không phiền hà gì.
• Xã hội con người là xã hội hệ cấp dày đặc tới nghẹt thở: Chức vị đi trước hay sau tên (bác sĩ, luật sư, tiến sĩ, thạc sĩ, giáo sư, giáo viên… cô, dì, chú, bác..); văn phòng (làm lớn văn phòng lớn, làm nhỏ văn phòng nhỏ), xe cộ (làm lớn đi xe có tài xế), áo quần (làm lớn mặc veston, làm nhỏ mặc quần jean), lương bỗng.…
Nói chung là các thứ trang điểm cho hệ cấp này như vài mươi lớp áo dày phủ kín người chúng ta. Rồi chúng ta có thể tự thêm vài tầng hệ cấp nữa bằng cách xưng hô ăn nói quan liêu từ trên nói xuống. Rốt cuộc, ta chỉ là một hình nộm to đùng đứng đuổi chim giữa đồng.


Khó ai thấy được con người thật của mình. Và rất có thể là mình cũng không biết được con người thật của mình, nếu mình không bao giờ trút bỏ các lớp vỏ.
Có lẽ là ta sẽ không bao giờ bỏ hết được tối thiểu là một bộ quần áo mặc trên người. Nhưng nếu ta có thể trút bỏ rất nhiều bộ đồ đang chất chồng không cần thiết trên cơ thể, thì ta sẽ dễ thở và thong thả hơn rất nhiều, và nhiều người sẽ thích thú con người thật của ta, hơn là một hình nộm tới 27 lớp áo quần.
(Trần Đình Hoành dịch và bình)

NGẮM NGÔI ĐỀN "NGỰ" TRÊN NGỌN NÚI CAO HƠN 1,600M

Vẻ đẹp một đền thờ Đạo giáo nằm chót vót trên ngọn núi Tayun sừng sững ở tây bắc Trung Quốc vừa được tiết lộ qua một loạt các bức ảnh tuyệt đẹp.

Theo Daily Mail, núi Tayun (
塔云山 Tháp Vân Sơn) tọa lạc ở thị trấn Chaiping (柴坪村 Sài Bình Thôn), tây bắc Trung Quốc. Đây là một trong những ngọn núi nổi tiếng nhất gắn liền kiến trúc Đạo giáo.

Đền thờ đạo giáo nằm tách biệt trên ngọn núi Tayun cao hơn 1.600 m.

Hàng loạt bức ảnh được chụp hồi tháng 9 cho thấy ngôi chùa Đạo giáo này nằm tách biệt, cheo leo trên đỉnh ngọn núi Tayuan cao hơn 1.600 m. Ngôi đền này thờ phụng Phật bà Quan âm và Ngọc Quan âm trong Đạo giáo.


Ẩn mình trong làn mây trắng, ngôi đền mang vẻ đẹp thoát tục. Ảnh: Daily mail

Nằm cheo leo trên ngọn núi cao chót vót, giữa một khoảng không gian rộng lớn, ngôi đền nằm trên khu vực có diện tích chưa đầy 6 m2.


Ngôi đền thờ Phật bà Quan âm và Ngọc Quan âm trong Đạo giáo. Ảnh: Daily Mail

Theo tờ Nhân dân Nhật báo, các dải đá xếp chồng lên nhau tạo nên “cái móng nhà” cho ngôi đền. Ngôi đền có bốn trụ đá với phần gốc trụ cũng được dựng lên từ phần đá của ngọn núi.


Ngôi đền ẩn mình trong làn mây trắng, toát lên vẻ mờ mờ ảo ảo tuyệt đẹp. Ảnh: Daily mail


Được xây dựng từ thời vua Minh Vũ của triều đại nhà Minh, ngôi đền Đạo giáo này gồm một phòng khách, một hội trường và chín cung điện.

Các tòa nhà trên có tuổi đời khoảng 500 năm và được xếp vào di tích văn hóa thứ cấp.


Ngôi đền nổi bật giữa một khoảng không gian mênh mông. Ảnh: Daily Mail


Kể từ thời Hoàng đế Càn Long của triều đại nhà Thanh (1644-1912), ngôi đền đã được trùng tu và nâng cấp năm lần.

Núi Tayun có đặc điểm địa hình đồi dốc, được xem là mảnh Đất Thánh của Đạo giáo, theo tuyên bố của chính quyền tỉnh Thiểm Tây.


Ngôi đền nằm phần cao nhất của ngọn núi. Ảnh: Daily Mail


Theo một nghiên cứu của tờ Nhân dân Nhật báo, Đạo giáo với lịch sử tồn tại hơn 1.800 năm, là một trong những tôn giáo truyền thống chủ đạo ở Trung Quốc. Đạo giáo nhấn mạnh vào sự tôn trọng thiên nhiên bởi tôn giáo này sùng bái những thực thể tự nhiên, trong đó có núi.

Hiện nay ở Trung Quốc có hơn 1.500 đền thờ Đạo giáo.

Thái Lai


Link đọc thêm:

http://www.dailymail.co.uk/news/peoplesdaily/article-3847018/Is-world-s-remote-temple-Taoism-shrine-stands-5-460ft-peak-China.html


http://collection.sina.com.cn/cqyw/2016-10-10/doc-ifxwrhpm2814682.shtml



NHỮNG NGƯỜI LÍNH MỸ

Lần đầu đọc được một bài viết mà lòng thì mâu thuẫn, post hay không ? Tôi không thích chánh trị nhưng bài viết nói lên tình người. Tình người có tốt có xấu, có yêu thương và phản bội, có cái tôn vinh quá đáng và có những phủ ơn một cách bội bạc ê chề.
Chắc chắn "chiến tranh là thứ điên rồ nhất trong những thứ điên rồ", chiến tranh có thể làm cho nhiều người thăng quan tiến chức rồi vinh thân phì da, chiến tranh có thể cướp đi tính mạng cũa những người chiến sĩ dù bên này hay bên kia thì gia đình họ là những người chịu đau khổ nhất và có thể bị bỏ quên ngay cả những người lính còn sống sót sau chiến tranh. Xã hội đã quên họ hay chỉ là những lời khen rỗng tuếch và cuộc sống của họ nghèo vẫn hoàn nghèo ?
Thôi thì tôi post lên như một lời trân trọng, cám ơn chân thành nhất cho những người lính sau chiến tranh không chỉ ở Mỹ mà ở khắp nơi trên thế giới dù bên nào đi nữa họ cũng đã thể hiện tinh thần nhiệt huyết của mình theo lệnh của cấp chỉ huy, để tuân hành đúng cho những người mang danh là lính.

NHỮNG NGƯỜI LÍNH MỸ
Tôi rất ngạc nhiên khi bà thư ký dẫn vị sĩ quan an ninh của Sở vào văn phòng với nét mặt hoảng hốt và rụt rè lên tiếng:
- Duy à... Có chuyện rồi! Ðại Úy Morrow cần gặp riêng Duy.
Bà ta vội vã quay lưng, với tay đóng cửa và bước nhanh ra ngoài.
Tôi vừa bắt tay Đại Úy Morrow vừa hỏi:
- Mời Đại Úy ngồi. Anh tìm tôi có việc gì quan trọng?
- Xin lỗi anh Duy nhé. Ở dưới nhà có 3 người 'homeless' cứ nằng nặc đòi gặp anh cho bằng được. Nhân viên an ninh đã giữ họ lại và báo cáo cho tôi tìm gặp ông để thảo luận. Những nguời này có vẻ không đàng hoàng... nhưng có một nguời tên Norman khai rằng anh là bạn của hắn ta.


- Ồ... Ðó là anh chàng thỉnh thoảng vẫn thổi kèn Saxophone kiếm tiền ở trạm xe điện ngầm Farragut West đó mà. Anh ta đàng hoàng lắm, không sao đâu, để tôi xuống gặp họ.
- Anh chờ chút. Chúng tôi muốn sắp xếp để canh chừng vì hai anh chàng kia trông có vẻ 'ngầu' lắm. Mấy tay này cứ luôn miệng chửi thề và 'càm ràm' với giọng điệu rất hung hăng về cuộc chiến Việt Nam. Tôi đoán chắc họ thuộc nhóm cựu chiến binh Việt Nam mắc bệnh tâm thần... Anh tính sao?
- Tôi nghĩ không cần thiết lắm đâu. Tôi biết tôi không thể dẫn họ lên văn phòng, nhưng có thể mời họ vào 'cafeteria' uống ly nước, chắc không sao chứ?
- Cũng được, nhưng cẩn thận vẫn hơn. Ðể tôi bảo nhân viên để ý trông chừng trong lúc anh gặp họ ở 'cafeteria'. Anh không ngại chứ?
- Cám ơn các anh, nhưng đừng lộ liễu quá, họ tủi thân.
Trong lúc theo với Đại Úy Morrow xuống nhà gặp 'khách', tôi nghĩ về kỷ niệm quen biết Norman từ gần 10 năm trước.

Hồi đó, tôi mới về làm cho National Geographic, vì chưa quen đường xá ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn nên thường đi làm bằng xe 'Metro'. Một buổi sáng thứ sáu, tôi đi trễ hơn bình thường vì phải ghé qua trường học để ký một số giấy tờ cho các con trước ngày tựu trường. Vừa ra khỏi xe điện ngầm ở trạm Farragut West, tôi nghe vọng lại tiếng kèn Saxophone rất điêu luyện đang 'rên rỉ' bài Hạ Trắng:
Gọi nắng... trên vai em gầy đường xa áo bay
Nắng qua mắt buồn, lòng hoa bướm say
Lối em đi về... trời không có mây
Đường đi suốt mùa nắng lên thắp dầy...
Lên khỏi cầu thang ở trạm xe điện, tôi sững sờ khi trông thấy một nguời Mỹ 'homeless' đang 'ngất ngưỡng' thả hồn vào một cõi xa xăm vô định, miệt mài thổi Saxophone. Bài hát vừa dứt, đám đông vây quanh vừa vỗ tay tán thưởng, vừa bỏ một vài đồng bạc lẻ vào cái mũ vải bên cạnh... Tôi tiến đến gần hơn, móc ví lấy tờ giấy bạc $10 bỏ vào mũ biếu anh ta, một người Mỹ có lẽ là cựu chiến binh Việt Nam vì anh ta đang mặc chiếc áo khoác quân nhân, với bảng tên Norman Walker trên túi áo và bên cạnh còn treo lủng lẳng một số huy chương. Tôi chưa kịp bỏ tiền vào mũ, anh ta đã hỏi bằng tiếng Việt:
- Mày Việt Nam hả? Biết bài hát vừa rồi không?
- Ðương nhiên rồi. Ông thổi kèn rất hay và có hồn. Ông nói tiếng Việt cũng giỏi.
- Ðại khái thôi. Kêu mày tao được rồi. Tao đã từng đấm đá gần 8 năm trời trên quê hương của mày, nhung khi trở về bị quê hương tao ruồng bỏ. Nản bỏ mẹ. Tao nhớ Việt Nam nên tập thổi nhạc Trịnh, thỉnh thoảng ra đây biểu diễn kiếm thêm ít đồng mua cơm mua cháo sống qua ngày với đám bạn không nhà không cửa trở về từ cuộc chiến.


- Ông...
- Lại ông nữa. Mày tao cho thân tình. Không phải người Việt tụi mày vẫn nói thế sao?
- Tôi không quen gọi người lạ như thế. Hay gọi nhau là 'anh tôi' được không?
- Tùy mày. Tiếng Việt tụi mày rắc rối lắm. Mày có cần phải đi làm chưa?
Tao phải tiếp tục thổi thêm vài tiếng nữa mới đủ sở hụi. Tao nghỉ lúc 11giờ, mày có thể tới nói chuyện. Nếu bận thì thôi. Thứ Sáu nào tao cũng làm ăn tại đây. Nếu không chê, mày có thể trở lại.
- Tôi sẽ trở lại trước 11 giờ. Văn phòng tôi làm việc cũng chỉ cách đây một quãng đường ngắn.
- Mày không sợ hả?
- Sợ gì?
-Tụi tao là loại nguời bị ruồng bỏ và khinh chê.
- Không có đâu. Tôi sẽ trở lại.
- Ði đi. Hẹn gặp lại.
Tôi đã trở lại gặp Norman và mời anh ta cùng ăn trưa hôm đó. Anh ta rất cảm động, và chúng tôi trở thành 'bạn' từ dạo đó. Tôi thắc mắc tự hỏi không hiểu tại sao hôm nay Norman không gọi điện thoại cho tôi mà lại dẫn theo hai người bạn tới văn phòng tìm tôi, gây xáo trộn cho thêm rắc rối.


Tôi chỉ sợ Norman và bạn của anh ta sẽ buồn và mất cảm tình với National Geographic cũng như cá nhân tôi vì bị những nhân viên an ninh của sở 'hạch hỏi'. Ðã từ lâu lắm rồi, tôi cảm nhận được nội tâm đơn thuần và tính tình chân thật của những cựu chiến binh không nhà không cửa lang thang khắp đường phố thủ đô Hoa Thịnh Ðốn. Có những người đã từ bỏ tất cả để sống kiếp lang thang tại vùng thủ đô để thỉnh thoảng có dịp ghé thăm và tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh trong cuộc chiến được khắc tên trên bức tường cẩm thạch mầu đen ở đài tưởng niệm Binh Sĩ Hoa Kỳ Trong Cuộc Chiến Việt Nam (Vietnam Veterans Memorial).
Những cựu chiến binh râu ria xồm xoàm, quần áo rách nát và bẩn thỉu, thân thể xâm đầy những bức hình ngổ ngáo hay những dòng chữ ngang tàng để che dấu một nội tâm lúc nào cũng khắc khoải trong đau thương tủi nhục và nhức nhối từng đêm vì những ám ảnh từ cuộc chiến Việt Nam. Tôi cảm thương với hoàn cảnh của họ và trân quý những hy sinh họ đã dành cho Quê Hương Yêu Dấu Việt Nam của chúng ta.


Vừa gặp mặt, Norman xiết chặt tay tôi cười lớn, rồi lên giọng:
- Gặp mày còn khó hơn gặp sĩ quan cao cấp ngoài mặt trận nữa. Hôm nay nói tiếng Anh nhé. Bạn tao không biết tiếng Việt và tao cũng không muốn đám 'cớm dổm' ở đây nghi ngờ, gây thêm phiền phức cho thằng bạn người Việt rất thân của tao.
Norman đổi giọng, nói tiếng Anh:
- Ðây là thằng Duy rất thân của tao. Nó là nguời Việt tỵ nạn nhưng đang làm lớn ở đây. Chắc nó giúp được tụi mình. Còn đây là Bernie và Bob, hai thằng bạn thân 'homeless' của tao.
Norman vẫn không buông tay nên tôi đành bắt tay trái với Bernie và Bob, rồi lên tiếng mời:
- Mời các bạn xuống 'cafeteria' uống nước và nói chuyện.
- Có tiện không? Hay tụi tao chờ mày ở ngoài kia, lúc nào rảnh ra nói chuyện.
- Không sao đâu. Tuy nhiên, Norman đừng đòi cà phê sữa đá, ở đây không có đâu. Norman cười ha hả trả lời bằng tiếng Việt:
- Biết rồi! Khổ lắm, nói mãi! Ðúng không? Rất đúng. Nghe giống hệt 'một ông già Bắc kỳ' thứ thiệt.
Chúng tôi vui vẻ bước vào gọi cà phê, cùng tiến về một bàn trống phía trong cùng trước bao nhiêu con mắt kinh ngạc của những người đang có mặt trong 'cafeteria' sáng hôm đó. Vừa ngồi xuống bàn, Norman vội vàng lên tiếng:

- Ðể khỏi mất thì giờ của mày, tao vào đề ngay nhé. Hôm qua Bernie đọc thấy ở đâu đó nói tuần này National Geographic sẽ có 'preview' cuộn phim 'Inside the Vietnam War' trước khi trình chiếu vào dịp kỷ niệm 40 năm biến cố Tết Mậu Thân. Ðúng không?
- Ðúng rồi. Chúng tôi sẽ bắt đầu chiếu trên đài National Geographic từ ngày 18 tháng 2 này.
- Ðài của tụi mày chỉ có trên 'Cable' và 'Direct-TV'. Dân 'homeless' tụi tao làm sao xem được. Tao biết họ vẫn mời mày 2 vé 'preview' mỗi khi có phim mới. Mày kiếm thêm vé cho 3 đứa tao đi xem với. Ðược không?
- Chắc được. Mấy lần trước tôi đưa vé cho bạn nhưng có bao giờ xuất hiện đâu!
- Lần này khác... vì họ nói về tụi tao và những bạn bè từng đấm đá trên Quê Hương của mày.
Ðể giữ sĩ diện cho tôi, cả 3 người 'bạn' cựu chiến binh đều ăn mặc quần áo tươm tất, đầu tóc chải gọn gàng đứng chờ ngoài hành lang 'Explorer Hall' cả giờ đồng hồ trước khi tôi xuống dẫn vào xem phim trong hội trường chính của National Geographic. Sau khi cầm trong tay 4 tấm vé 'preview', tôi đã liên lạc nhờ mấy nguời trong nhóm 'Audio & Video' của sở sắp xếp để chúng tôi ngồi trong góc cuối của hội trường, tránh xa những vị 'tai to mặt lớn' trong sở cũng như những vị khách từ Bộ Quốc Phòng, Bộ Cựu Chiến Binh, Quốc Hội, và viên chức Chính Phủ Mỹ.


Sau những lời giới thiệu, những bài diễn văn theo thủ tục, cuộn phim bắt đầu chiếu. Mấy người bạn cựu chiến binh Mỹ của tôi chăm chú lắng nghe, mắt người nào cũng long lanh ngấn lệ, cùng xiết chặt tay nhau để nén lại những cảm xúc đang cuồn cuộn trào dâng trong tim của mỗi nguời.
Thỉnh thoảng tôi nghe thoang thoảng đâu đó một vài tiếng sụt sùi nho nhỏ vang lên khắp hội trường. Ba nguời bạn của tôi vẫn 'án binh bất động' dõi mắt đăm chiêu theo từng tấm hình, từng tiếng súng, từng bước đi, từng câu nói, từng tiếng khóc... trên màn ảnh. Tới đoạn phim chiếu lại cảnh những cựu chiến binh trở về từ Việt Nam bị 'dân Mỹ' và có lúc cả gia đình và bạn bè miệt thị, Bob bật tiếng khóc thật lớn, rồi Bernie, rồi Norman và một vài nguời chung quanh cùng khóc theo!
Ai đó đã ra lệnh tạm ngưng. Ðèn hội trường bật sáng. Tôi vội vã xin lỗi những người chung quanh rồi vội vàng 'kéo' ba nguời bạn cựu chiến binh ra khỏi hội trường. Cả ba vừa đi vừa khóc, lững thững lê gót 'khật khưỡng' bước theo tôi như ba cái xác không hồn!
Mấy ngày sau, tôi nhận được một cú điện thoại từ nhóm thực hiện cuộn phim tài liệu 'Inside the VietNam War' nhờ tôi sắp xếp một cuộc gặp gỡ với 3 nguời bạn cựu chiến binh 'homeless' đã cùng tôi đi xem 'preview' hôm đó, và cũng nhờ họ mời thêm những bạn bè khác vì Bộ Quốc Phòng và Bộ Cựu Chiến Binh cùng một vài viên chức trong chính phủ muốn gặp gỡ và giúp đỡ họ.


Có lẽ đã tới lúc nguời Mỹ nhận thức được 'món nợ phải trả' cho sự hy sinh của những cựu chiến binh từng tham chiến ở Việt Nam.
Lòng tôi chợt nhói lên một niềm đau khi nghĩ tới số phận của những cựu quân nhân và công chức của Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Ai còn? Ai mất?
Nguyễn Duy An

Nguyễn Duy An là người Á Châu đầu tiên đảm nhận chức vụ Senior Vice President National Geographic tổ chức văn hóa khoa học lớn nhất thế giới.
(Sưu tầm trên mạng)


HẤP DẪN TÔ BÁNH CANH BẾN CÓ GIA TRUYỀN Ở TRÀ VINH

Hồi nào tới giờ tôi chỉ nghe nói nhiều đến món ăn nổi tiếng ở Trà Vinh là bún nước lèo, bún suông, mắm bò hóc,...đến hôm nay xem chương trình "Một trăm triệu một phút" có một câu hỏi: "Tỉnh thành nào nước ta nổi tiếng với món "Bánh canh Bến Có"? và đáp án đúng là Trà Vinh.

HẤP DẪN TÔ BÁNH CANH BẾN CÓ GIA TRUYỀN Ở TRÀ VINH

Tô bánh canh toả mùi hương ngào ngạt, lòng heo được xếp trên mặt tạo sự hứng thú cho người ăn. Nếm miếng nước dùng mới hiểu được vì sao mà tô bánh canh Bến Có ở Trà Vinh lại nổi tiếng khắp vùng trong mấy chục năm qua.

Đến Trà Vinh lần nào, tôi cũng cố tranh thủ thăm lại quán và thưởng thức cho được tô bánh canh Bến Có nổi tiếng của Trà Vinh nói riêng và của miền Tây Nam bộ nói chung. Theo lời của chị Muối (chủ quán), mỗi ngày gia đình chị bán được hơn 500 tô; vào dịp lễ, tết có khi lên đến cả ngàn tô. Ghé quán ăn tôi thấy đông nghẹt khách, có khi phải đứng cả bên ngoài chờ đợi vì thiếu ghế ngồi.





Quán tọa lạc trên Quốc lộ 53, thuộc ấp Bến Có, xã Nguyệt Hoá (huyện Châu Thành). Tuy khá nổi tiếng với thực khách nhưng cách trang trí quán lại rất dân dã, đúng kiểu miền Tây. Theo lời chị chủ quán, trước đây mẹ chị là người đầu tiên gánh hàng bánh canh rong ruổi ở nơi này. Sau đó bà dựng lên một cái lều để bán, dần dần khách đông quá nên bà mới mở rộng quy mô thành cái quán lớn với thương hiệu bánh canh. Sau khi bà mất, cả 6 người con đều nối theo nghiệp bán bánh canh gia truyền của mẹ để lại.



Lần đầu tiên tôi dùng tô bánh canh Bến Có cách đây khoảng 5 năm. Đó là lần tôi cùng với một người bạn xuống miệt Trà Vinh để tìm hiểu về đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở nơi này. Từ đó, tôi “ghiền” lắm tô bánh canh đặc sản của xứ Trà. Mỗi lần đến nơi đây tôi đều ghé lại quán để thoả mãn sự thèm thuồng và cũng để thăm hỏi những người đang nối nghiệp bán bánh canh dưới dốc cầu Bến Có. Tôi đặc biệt ấn tượng với tô bánh canh ở nơi này, bởi vì cách chế biến công phu và mùi vị thì không nơi nào có thể sánh kịp.



Tô bánh canh đặc biệt ở chỗ không dùng rau, chỉ có giá, lòng heo xắt nhuyễn, một khoanh giò heo ở giữa tô, ít hành lá, tiêu rắc lên trên mặt vậy mà ngon khó cưỡng. Theo chủ quán kể lại, tô bánh canh này không có bí quyết nhưng nguyên liệu phải tuyệt đối tươi ngon, đặc biệt là sợi bánh cũng tự tay chế biến rồi thả vào nồi nước đang sôi để bánh có độ mềm, dẻo vào thơm ngon hơn khi đưa vào miệng.



Từng được thưởng thức nhiều đặc sản các vùng nhưng tôi nhận thấy, ít có món ngon nào có sức thu hút mạnh mẽ với tôi như tô bánh canh Bến Có. Bởi mùi vị của tô bánh ngọt lành, hương thơm quyến rũ làm cho thực khách có cảm giác vấn vương. Đó cũng là nhận xét chung của nhiều khách đã từng có dịp thưởng thức tô bánh canh này. Chủ quán còn cho tôi biết thêm một điều thật thú vị là, thỉnh thoảng có một chiếc xe hơi ở Sài Gòn chở toàn khách Tây đến quán ăn tô bánh canh rồi mua một ít mang về. Họ lần nào cũng không quên hẹn ngày trở lại để thưởng thức tiếp món bánh canh độc đáo.



Với tôi, dù đã qua bao năm nhưng tô bánh canh Bến Có vẫn giữ mãi hương vị độc đáo ngày nào. Có lẽ đó chính là bí quyết gia truyền mà người mẹ năm xưa đã để lại cho 6 người con hiện đang tiếp nối. Và vì những điều ý nghĩa ấy mà giá trị của tô bánh canh Bến Có ngày một nâng lên, trở thành món ăn độc đáo và nổi tiếng với thực khách khi đến xứ Trà này.

Hoàng Lê