Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2016

BHUTAN, CÕI NIẾT BÀN TĨNH MẶC

Hôm nay tôi post bài này như một lời giới thiệu vì tôi chưa đến được đất nước này. Tôi lần đầu tiên biết đến Bhutan vì rất tám trên những tin tức về nghệ sĩ tài danh, Bhutan đến với tôi vào ngày 21/07/2008, ngày đám cưới của Lương Triều Vĩ và Lưu Gia Linh. Sau đó rồi quên, đến mấy tháng trước xem Youtube qua bài phát biểu của ngài Thủ tướng Bhutan, tôi mới lần nữa thật sự biết về Bhutan " Đất nước hạnh phúc nhất thế giới". Nhưng một điều khác cho mọi đất nước khác trên thế giới, Bhutan không muốn và quảng cáo cho mọi dịch vụ du lịch đến với nước mình.

BHUTAN, CÕI NIẾT BÀN TĨNH MẶC
Ẩn mình bên dãy Himalaya hùng vĩ, Bhutan quyến rũ du khách bởi khung cảnh thiên nhiên hoang sơ và hệ thống tu viện độc đáo.
Bhutan là quốc gia nằm kín trong lục địa Nam Á giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Tuy không gian biệt lập với thế giới nhưng nơi đây vẫn vẹn nguyên nét đẹp thanh bình, yên ả của vùng đất vốn hội tụ những điều hạnh phúc nhất của miền hạ giới. Đúng như tên gọi “Vương quốc hạnh phúc”, khắp đất nước Bhutan luôn ngập tràn những gương mặt rạng rỡ với phong cách sống rất riêng: không phân biệt giàu nghèo, không nhà cửa hiện đại, không đường phố tấp nập, náo nhiệt mà thay vào đó là những bảng khẩu hiệu đem lại cảm giác thật gần gũi và thân thiện.




Phần lớn người dân Bhutan đều theo đạo Phật, đó là lý do khi đặt chân đến đây, vãn cảnh bất cứ nơi đâu bạn cũng nhìn thấy những lá cờ phướn của nhà Phật tung bay trong gió cùng hệ thống tu viện được xây dựng hết sức công phu, mang vẻ đẹp vừa huyền bí lại vừa uy nghiêm. Tất cả gần như đi theo lối kiến trúc “dzong” (pháo đài) có dáng dấp bên ngoài rất đồ sộ được bao bọc bởi lớp tường tháp kiên cố. Một lối kiến trúc đặc biệt không cần bất kỳ bản vẽ kĩ thuật nào, cũng không cần một loại đinh ốc nào để kết dính các chi tiết với nhau.




Nổi bật nhất phải kể đến là tu viện Taktsang nằm chênh vênh trên vách núi đá granit sừng sững. Đây được xem là thánh địa linh thiêng nhất của vương quốc Bhutan được các tín đồ Phật giáo và người dân đặc biệt tôn kính bởi Taktsang gắn liền với quá trình tọa thiền của ngài Liên Hoa Sinh – tổ sư Mật Tông Kim Cương thừa. Trên nền trời xanh thẳm, giữa những áng mây bồng bềnh, chiêm bái chốn linh thiêng này, tựa như bạn đang được đấng tối cao ban phước lành và may mắn.




Trên đường đến thủ đô Thimphu, xuyên theo hàng thông vun vút và những dòng suối tinh khiết chảy len lỏi qua những bờ đá, tu viện Tashichho Dzong nằm bên bờ sông Wang Chhu dần hiện ra trước mắt bạn như một bức tranh sống động. Đây là nơi làm việc của quốc vương Bhutan, cũng là nơi ngự giá của các vị lãnh đạo Phật giáo. Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến pháo đài Punakha đẹp nhất của đất nước nằm giữa hai con sông thơ mộng Pho Chu và Mo Chu. Dù từng bị tàn phá do thảm họa thiên nhiên nhưng Punakha vẫn không làm mất đi nét đẹp kiến trúc tinh túy mà ngài Đại Lạt Ma đã dày công xây dựng.





Một lần đặt chân đến miền đất hạnh phúc Bhutan, hòa trong cảnh sắc thiên nhiên yên bình, thành kính đảnh lễ nơi cửa Phật thánh linh để tìm về chút tĩnh tâm, bình yên trong cõi lòng sau những bộn bề, lo toan thường nhật chắc chắn là một hành trình đáng nhớ của các Phật tử.
Trần Minh/ TST Tourist





NHỮNG VẾT ĐINH

Nhẫn nhất thời phong bình lãng tĩnh
Thối nhất bộ hải khoát thiên không
忍一時風平浪靜
退一歩海闊天空

Dịch nghĩa:
Nhẫn một lúc gió yên sóng lặng
Lùi một bước biển rộng trời cao
Ai cũng biết vậy chớ làm được là điều không phải dễ. Bài học hôm nay sẽ cho các bạn một kinh nghiệm sống:

Một cậu bé nọ có tính rất xấu là rất hay nổi nóng. Một hôm, cha cậu bé đưa cho cậu một túi đinh rồi nói với cậu: “Mỗi khi con nổi nóng với ai đó thì hãy chạy ra sau nhà và đóng một cái đinh lên chiếc hàng rào gỗ”.

NHỮNG VẾT ĐINH

Ngày đầu tiên, cậu bé đã đóng tất cả 37 cái đinh lên hàng rào. Nhưng sau vài tuần, cậu bé đã tập kiềm chế dần cơn giận của mình và số lượng đinh cậu đóng lên hàng rào ngày một ít đi. Cậu nhận thấy rằng kiềm chế cơn giận của mình dễ hơn là phải đi đóng một cây đinh lên hàng rào.


Đến một ngày, cậu bé đã không nổi giận một lần nào trong suốt cả ngày. Cậu đến thưa với cha và ông bảo:
- Tốt lắm, bây giờ nếu sau mỗi ngày mà con không hề giận với ai dù chỉ một lần, con hãy nhổ cây đinh ra khỏi hàng rào.
Ngày lại ngày trôi qua, rồi cũng đến một hôm cậu bé đã vui mừng hãnh diện tìm cha mình báo rằng đã không còn một cây đinh nào trên hàng rào nữa. Cha cậu liền đến bên hàng rào. Ở đó, ông nhỏ nhẹ nói với cậu:


- Con đã làm rất tốt, nhưng con hãy nhìn những lỗ đinh còn để lại trên hàng rào. Hàng rào đã không giống như xưa nữa rồi. Nếu con nói điều gì trong cơn giận dữ, những lời nói ấy cũng giống như những lỗ đinh này, chúng để lại những vết thương khó lành trong lòng người khác. Cho dù sau đó con có nói lời xin lỗi bao nhiêu lần đi nữa, vết thương đó vẫn còn lại mãi. Con hãy luôn nhớ: vết thương tinh thần còn đau đớn hơn cả những vết thương thể xác. Những người xung quanh ta, bạn bè ta là những viên đá quý. Họ giúp con cười và giúp con mọi chuyện. Họ nghe con than thở khi con gặp khó khăn, cổ vũ con và luôn sẵn sàng mở trái tim mình ra cho con. Hãy nhớ lấy lời cha…
(Sưu tầm trên mạng)

Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2016

VÔ TÂM

Vô tâm không phải là không có tâm. Vô tâm cũng không phải là vô cảm. Mackeno. Có một chữ tượng hình rất hay trong chữ Hán : 木 là mộc. 目 là mục. 心 là tâm.
Khi mộc ghép với mục thì thành tướng 相. Tướng vô tội. Không sanh sự. Nói khác đi, khi trần (mộc= cây) gặp căn (mục = mắt) thì chẳng có chuyện gì xảy ra!
“Sắc thanh hương…” đụng “nhãn nhĩ tỷ…” chả sao cả. Cận thấy kiểu cận, loạn thấy kiểu loạn, lão thấy kiểu lão.
Con người tội nghiệp. Nhãn thua loài cú. Nhĩ thua loài dơi, Tỷ thua loài chó… Con ong cái kiến cũng có căn có trần riêng của nó! Vậy mà con người cứ tưởng mình ngon nhất thế gian.
Làm được cái kính thiên văn đường kính rộng, nhìn lên bầu trời đã la hoảng khi thấy có hàng trăm ngàn tỷ thiên hà, trong khi xưa kia tưởng chỉ có mỗi một mặt trời vĩ đại của riêng ta thôi!
Nay mai có kính thiên văn đường kính rộng hơn nữa không biết chuyện gì sẽ xảy ra!
Trở lại chuyện Tâm. Căn với trần mới là tướng. Ghép thêm chữ tâm (心) vào thì mới thành tưởng 想.

Có tưởng là bắt đầu sinh sự. Tưởng vô vàn. Tưởng vô tận. Muốn thiên đàng có thiên đàng. Muốn điạ ngục có địa ngục.
Cho nên tu là tu Tâm. “Nhất thiết duy tâm tạo”. Tất cả là do tâm bày vẽ ra.
Phật từ thời Hoa Nghiêm đã nói rõ như thế. Hạnh phúc khổ đau từ đó. So sánh hơn thua, chém giết nhau từ đó.
Tiếng Việt ta còn hay hơn: Tướng và Tưởng, chỉ khác nhau có mỗi cái dấu sắc, dấu hỏi… Mà đã ngàn trùng cách xa!
Vô tâm thì vô sự. Vô sự thì bình an. Bình an vô sự. Người ta chúc nhau như vậy.
Người ta lại chúc nhau « Vạn sự như ý »! Ý dẫn các pháp. Muốn « vạn sự » được « như ý » đâu có khó gì.

Một đám du khách hỏi anh nông dân: Hôm nay thời tiết ở đây thế nào anh? Hôm nay có thứ thời tiết mà tôi thích! Làm sao anh biết là có thứ thời tiết mà anh thích ?
Phải học, thưa ông. Không phải lúc nào tôi cũng có cái tôi muốn nên tôi phải biết muốn cái tôi có.
“Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” (Trần Nhân Tông).
BS Đỗ Hồng Ngọc
Theo: phatgiaoaluoi

VÂNG, ÔNG GIÀ NOEL LÀ CÓ THẬT


Trong suốt nhiều thập niên qua, vào mỗi cuối năm dương lịch, các tờ báo ở Mỹ thường cho đăng lại một lá thư trả lời cho một cô bé 8 tuổi tên là Virginia, gởi cho tờ The New York Sun vào năm 1897. Trong thư cô bé hỏi: "Santa Claus có thật không?Và lá thư trả lời ấy đã được rất nhiều người biết đến, mỗi năm thường được các tờ báo in lại với tựa đề, "Yes, Virginia, there is a Santa Claus."  

Lá thư trả lời của tờ The New York Sun viết cách nay đã hơn 100 năm, nhưng mỗi lần đọc lại tôi thấy vẫn còn mới tinh, sự thật ấy vẫn không hề thay đổi. Tôi nghĩ những lời chia sẻ ấy không phải chỉ nói về một ông Noel, mà có lẽ còn cho hết tất cả những điều kỳ diệu khác đang có mặt trong cuộc sống.

Xin được chia sẻ với các bạn, tất cả những Virginia ở mọi lứa tuổi.
--- oOo ---
Kính chào bác chủ bút —
Cháu được 8 tuổi.  Một vài đứa bạn nhỏ của cháu nói rằng Ông già Noel không có thật.  Ba cháu nói, “Nếu con đọc trên báo The Sun, tức là có thật.” Xin ông nói sự thật cho cháu biết, ông già Noel có thật hay không?
Virginia O’Hanlon 

Cháu Virginia mến, những đứa bạn nhỏ của cháu đã lầm rồi. Chúng đã bị ảnh hưởng bởi cái tánh nghi ngờ của một thời đại có quá nhiều hoài nghi ngày nay. Chúng không tin trừ khi nào chúng phải thấy. Chúng nghĩ rằng, những gì mà đầu óc nhỏ bé của chúng không hiểu được là không thể nào có thật. Nhưng cháu biết không Virginia, tất cả những trí óc, dầu của người lớn hay trẻ con, đều là rất nhỏ bé. Trong cái vũ trụ bao la, rộng lớn này, sự hiểu biết của con người chỉ là một con kiến bé tí ti, so với cái thế giới vô tận chung quanh mình, thì làm sao ta có đủ trí thông minh để tiếp nhận hết tất cả những sự thật được.
Vâng, Virginia, ông già Noel là có thật. Ông hiện hữu rõ rệt cũng như là tình thương và sự rộng lượng và sự chân thành đang có mặt. Và như cháu biết, những điều ấy rất đầy dẫy chung quanh và chúng mang lại cho cuộc sống của cháu những điều tốt đẹp và hạnh phúc nhất. Than ôi, nếu như thế giới này không có Ông già Noel thì cuộc sống này buồn thảm đến dường nào! Nó cũng sẽ rất là ảm đạm nếu như cuộc sống này không có những đứa trẻ như cháu vậy. Thế giới này sẽ không có những niềm tin của trẻ thơ, không thơ phú, không tình yêu với mộng mơ để làm cuộc sống này tươi đẹp hơn. Chúng ta không có gì để vui và thưởng thức nữa hết, ngoại trừ qua những gì mình thấy và nghe. Ngọn lửa trong sáng của tuổi thơ làm sáng đẹp cuộc đời này sẽ bị dập tắt ngấm.

Nếu như không tin vào Ông già Noel, thì thôi cháu cũng đừng tin vào những ông bụt, bà tiên nữa làm gì. Cháu có thể nói Ba cháu thuê người canh chừng xem Ông già Noel có trèo xuống những ống khói vào đêm Noel không, và cho dù nếu như cháu không thấy ai hết, nhưng việc ấy có chứng minh được điều gì chăng? Chưa ai thấy Ông già Noel bao giờ hết, nhưng cũng đâu có dấu hiệu gì chứng minh là không có Ông già Noel đâu!

Cháu biết không, những điều chân thật nhất trên cuộc đời này là những gì mà cả người lớn và trẻ con đều không thể thấy được. Cháu có bao giờ thấy những bà tiên chưa? Lẽ dĩ nhiên là không, nhưng đâu ai có thể chứng minh là các vị ấy không hiện hữu. Không ai có thể nhận thức hay tưởng tượng được những sự kỳ diệu có mặt trong thế giới này, chúng là những gì ta không thấy và cũng sẽ không thể nào thấy được.

Cháu có thể đập vở cái lục lạc đồ chơi trẻ con ra xem, và nhìn thấy được những gì bên trong đã tạo nên những âm thanh ấy. Nhưng có một tấm màn che phủ một thế giới vô hình mà cho dù một người khỏe nhất, hoặc là tất cả những người mạnh nhất trên thế giới này góp sức lại, cũng không thể nào vén mở lên được. Chỉ có niềm tin, thơ văn, tình thương, ước mơ... mới có thể vén mở được tấm màn ấy, và cho ta thấy được những điều kỳ diệu và nhiệm mầu đang nằm ở phía sau. Mà tất cả điều ấy là có thật hay không? Cháu biết không Virginia, trên tất cả thế giới này, không còn có gì là chân thật và chắc chắn hơn là điều ấy.
Ông già Noel, cám ơn trời đất, ông hiện hữu và vẫn sẽ còn có mặt mãi mãi. Một ngàn năm sau này, mà cháu biết không Virginia, 10 lần hơn thế nữa, 10,000 năm sau kể từ bây giờ, Ông già Noel vẫn còn có mặt và tiếp tục mang niềm vui đến cho những con tim của các trẻ thơ như cháu.
Nguyễn Duy Nhiên phỏng dịch
(Sưu tầm trên mạng)

GÀ CHƯA GÁY SAO ĐÃ VỘI THỨC ?

Trong bối cảnh của cuộc sống “không căng thẳng không về” quả thật không dễ đêm nào đặt lưng cũng ngáy o o. Nhưng nếu tưởng chỉ vì quá xì-trết nên đêm biến thành ngày thì lầm! Nhiều bà đang là nạn nhân của một tình trạng nghịch lý khi muốn chợp mắt quên đời. Đó là nạn nhân tuy không khó ngủ, thậm chí nhiều khi dễ ngủ là khác, nhưng chưa quá canh hai bỗng thức giấc rồi trăn trở đến gần sáng. Éo le hơn nữa là khi sắp trở vào ngủ lại là lúc phải ngồi dậy vì nhiều việc đang chờ bà xử lý. Hậu quả là nạn nhân sáng nào cũng mệt mỏi cứ như kéo cày suốt đêm. Có giỏi chịu đựng cách mất ly nước sớm muộn cũng tràn vì giọt nước không đâu.
Thông thường, mất ngủ theo kiểu đang ngon ở bỗng gãy gánh giữa đường là hậu quả của một căn bệnh nào khác, như trầm uất, bệnh tim, bệnh thận. Nhưng trong nhiều trường họp mất ngủ, như vừa mô tả, lại không do bệnh nào hết mà chỉ là hậu quả rất bình thường, dù là với người bệnh thì bất thường, trong một giai đoạn muốn tránh cũng không được của phận má hồng. Đó là thời kỳ mãn kinh!

Tác động, nói đúng hơn, tác hại của tình trạng thiếu hụt nội tiết tố nữ tính khiến chiếc đồng hồ sinh học trong cơ thể bỗng chạy trật giờ. Não bộ khi đó ghi nhận đêm dài chỉ còn có mấy tiếng đồng hồ! Hậu quả là nạn nhân bị đánh thức lúc nửa đêm vì não diễn dịch trật lất là trời đã sáng dù gà chưa hề gáy. Đã vậy, không dễ dỗ lại giấc ngủ vì trung khu điều hành giấc ngủ rất ngoan cố!, hễ nói không là không!, dù là nói sai!. Không cần dông dài cũng hiểu chất lượng lao động, học tập, tư duy… lao đao đến thế nào vì gia chủ hết pin do mất ngủ!
Nạn nhân tất nhiên có thể dùng thuốc an thần để mua cho bằng được giấc ngủ tạm bợ. Nhưng nào có đơn giản như thế! Bên cạnh chuyện lệ thuộc thuốc nhiều công trình nghiên cứu trong thời gian gần đây cho thấy người dùng thuốc ngủ quá thường là miếng mồi ngon  của nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, trầm uất, phân liệt cá tính, đau đầu kinh niên…

Chữa mất ngủ mà quên vai trò của nội tiết tố chẳng khác nào muốn chống kẹt xe mà không giải quyết cho xong cầu đường. Thay vì quá nhanh chân tìm thầy thuốc ngành thần kinh, nhiều nạn nhân của chứng mất ngủ nên gõ cửa nhà điều trị chuyên về nội tiết tố. Bằng chứng là, cũng theo kết quả nghiên cứu hẳn hoi, không dưới 60% thành viên của “câu lạc bộ mãn kinh” có thể tìm lại giấc ngủ yên bình sau khi được điều trị bằng cây thuốc chọn lọc theo phương án:
–    điều trị hội chứng mãn kinh thông qua hoạt chất thực vật có tác dụng tương tự nội tiết tố với hiệu quả không kém thuốc hóa chất tổng hợp lại thêm lợi điểm là ít phản ứng phụ.
–    cải thiện hàm lượng dưỡng khí nội bào thần kinh nhờ tác dụng của dược thảo được thầy thuốc Đông Y xếp vào nhóm “hoạt huyết”.

Chuyện gì cũng có lý do. Nhiều bà đang mất ngủ không hẳn do bệnh nào nghiêm trọng mà chỉ vì khúc quanh khó tránh trên đường đời. Chọn liệu pháp may rủi với thuốc ngủ hóa chất tổng hợp trong khi giải pháp vừa hiệu quả, vừa an toàn rất gần trong tầm tay?
Bác sĩ Lương Lễ Hoàng

A DI ĐÀ PHẬT

Tôi đọc bài này cũng lâu lâu rồi, muốn post lên cho các bạn tham khảo nhưng sợ không đủ tư cách vì trước hết tôi không phài là Phật tử, tôi chưa quy y, chưa thích ăn chay dù tôi rất tin Phật.
Hồi nhỏ theo bà nội tôi vào chùa lạy Phật, bà nội tôi dạy tôi niệm "Nam Mô A Di Đà Phật", tôi niệm theo và cho tới bây giờ tôi vẫn niệm. Lớn lên chút, thời trung học đệ nhất cấp tôi học trường Bồ Đề ở Cần Thơ, phải học thêm mấy tiếng giáo lý về Phật giáo mỗi tuần. Tôi mới hiểi ra sự tích Phật Thích Ca không phải là Phật A Di Đà mà là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Sau này qua Úc, vào chùa Việt thấy trong chánh điện thờ ở giữa là Phật Bổn Sư, bên trái của Phật là Quán Thế Âm Bồ Tát và bên phải là Địa Tạng Vương Bồ Tát, vào chùa Tàu theo đại thừa thì trong chánh điện thờ 3 vị Phật giống nhau về hình tướng nhưng khi tìm tòi trong kinh điển thì 3 vị Phật là: Phật Bổn Sư Thích Ca ngồi giữa, bên trái là Phật Dược Sư và bên phải là Phật A Di Đà. Khái niệm căn bản để phân biệt là nhìn vào bảo pháp mà các vị Phật cầm trong tay. Phật Bổn Sư cầm "bình bát", Phật A Di Đà cầm "bông sen" và Phật Dược Sư cầm "bảo tháp hay bình thuốc" vì hình tướng các vị Phật đều giống nhau.
Bài mà hôm nay tôi muốn post lên cho các bạn đọc để biết về một vị Phật mà thường như người theo đạo Phật đều niệm "Nam Mô A Di Đà Phật".

A DI ĐÀ PHẬT

A Di Đà Phật 阿弥陀佛, tiếng Phạn là Amita-buddha, Amita có nghĩa là “vô lượng” 无量, nhân đó cũng gọi là “Vô Lượng Phật” 无量佛, là vị quốc chủ của tịnh độ Tây phượng cực lạc. Trong Phật giáo đại thừa, A Di Đà Phật là chủ tôn của “Tây phương tam Thánh” 西方三圣 (1), Quán Thế Âm 观世音 và Đại Thế Chí 大势至 là hai vị Hiếp thị (2), giúp Phật giáo hoá chúng sinh, tiếp dẫn bi nguyện hữu tình đến tịnh độ cực lạc. Trong hệ thống Mật tông, trong “ngũ phương Phật” (3) mà Thái Dương Như Lai 太阳如来 thống lĩnh, A Di Đà Phật ở phương Tây, đại biểu cho trí huệ.


A Di Đà Phật có đến 13 danh hiệu, bao gồm:
Vô Lượng Thọ 无量寿
Vô Lượng Quang 无量光
Vô Biên Quang 无边光
Vô Ngại Quang 无碍光
Vô Đối Quang 无对光
Hoan Hỉ Quang 欢喜光
Bất Đoạn Quang 不断光
Nan Tư Quang 难思光
Vô Xưng Quang 无称光
Siêu Nhật Nguyệt Quang 超日月光
Trí Huệ Quang 智慧光
Diễm Vương Quang 焰王光
Thanh Tịnh Quang 清净光
Trong đó, Vô Lượng Thọ Phật và Vô Lượng Quang Phật là nổi tiếng nhất và cũng là trọng yếu nhất.
Trong Phật thuyết A Di Đà Phật kinh 佛说阿弥陀佛经 nói rằng:
Bỉ Phật quang minh vô lượng, chiếu thập phương quốc vô sở chướng ngại, thị cố danh vi A Di Đà … Bỉ Phật thọ mạng cập kì nhân dân vô lượng vô biên a tăng kì kiếp, cố danh A Di Đà.
彼佛光明无量, 照十方国无所障碍, 是故名为阿弥陀 ….. 彼佛寿命及其人民无量无边阿僧祇劫, 故名阿弥陀.
(Phật A Di Đà hào quang sáng rỡ vô lượng, chiếu tới thập phương quốc mà không bị ngăn trở, cho nên gọi Ngài là A Di Đà. ….. Thọ mạng của Phật cùng với thọ mạng của chư Phật chư Thánh trong nước của Ngài là vô lượng vô biên, dài đến cả vô số kiếp, cho nên gọi Ngài là A Di Đà.)
Trong Vô Lượng Thọ kinh 无量寿经 có nói đến lai lịch của A Di Đà Phật: Vào thời Thế Tự Tại Vương Như Lai 世自在王如来 có một vị Pháp Tạng Tì kheo phát hạ 48 đại nguyện, muốn thành tựu một quốc độ tận thiện tận mĩ, đồng thời dùng phương pháp tốt nhất để độ hoá chúng sinh. Về sau Pháp Tạng Tì kheo thành Phật, chính là A Di Đà Phật, sáng lập ra một quốc độ lí tưởng mà mọi người hướng tới, đó là thế giới cực lạc. Chỉ cần chân tâm cầu trí huệ Phật pháp, đồng thời nhất tâm niệm Thánh hiệu A Di Đà Phật, lúc lâm chung, A Di Đà Phật sẽ cùng Quán Thế Âm, Đại Thế Chí đến tiếp dẫn, vãng sinh vào thế giới cực lạc.
Tín ngưỡng A Di Đà Phật cực thịnh, có câu ngạn ngữ:
Gia gia A Di Đà, hộ hộ Quán Thế Âm
家家阿弥陀, 户户观世音
Không chỉ Trung Quốc mà Nhật Bản, Hàn Quốc cũng như vậy. Ấn Độ, Tây vực cũng từng thịnh hành. Do bởi pháp môn niệm Phật đơn giản, tiện lợi nên người tin theo rất đông. Thậm chí 4 chữ “A Di Đà Phật” trở thành lời chào trong tín đồ Phật giáo. Còn như mọi người niệm:
Nam mô A Di Đà Phật
南无阿弥陀佛
Ý nghĩa là “quy y A Di Đà Phật”.


Chú của người dịch
1- Tây phương tam Thánh 西方三圣: cũng gọi là “Di Đà Tam Tôn” 弥陀三尊, tức A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát.
2- Hiếp thị 胁侍: cũng gọi là “Hiếp sĩ” 胁士 (脅士)
Theo Phật học từ điển của Đoàn Trung Còn:
“Vị Hiếp sĩ. Lại gọi là Hiếp thị 脅侍. Hiệp trì 挾持, là vị Bồ tát đứng hầu ở hai bên cạnh sườn Phật. Sĩ 士 là Đại sĩ 大士, tiếng dịch chữ Bồ tát, Hiếp 脅 là cạnh sườn, vì các vị Bồ tát ấy thường theo hầu hai bên cạnh sườn Phật, tán trợ Phật giáo hoá chúng sanh, như Quan Âm, Thế Chí làm Hiếp sĩ đức Phật A Di Đà; Nhựt Quang, Nguyệt Quang làm Hiếp sĩ đức Phật Dược sư; Phổ Hiền, Văn Thù làm Hiếp sĩ đức Phật Thích Ca.
Mỗi đức Phật Trung tôn có hai vị Hiếp sĩ. Phật và hai vị Hiếp sĩ hiệp thành Tam Tôn vậy.”
(Phật học từ điển, quyển 2, trang 13. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.)
3- Ngũ phương Phật
Trong thế giới Mật tông, Đại Nhật Như Lai 大日如来 là Mật tông giáo chủ. Lấy Đại Nhật Như Lai làm trung tâm hình thành Ngũ phương Phật, tuyên giảng Phật pháp. Trong Ngũ phương Phật lấy Đại Nhật Như Lai (tức Tì Lư Già Na Phật 毗卢遮佛) làm trung tâm, chung quanh có Đông phương A Súc Phật 东方阿 (*) 佛; Tây phương Vô Lượng Quang Phật 西方无量光佛 (tức A Di Đà Phật阿弥陀佛); Nam phương Bảo Sinh Phật 南方宝生佛; Bắc phương Bất Không Thành Tựu Phật 北方不空成就佛. Mục đích đem 5 loại chấp trước của nhân loại là “tham, sân, si, mạn, nghi” chuyển biến thành 5 loại trí tuệ.
*- Trong nguyên tác, chữ “Súc” này gồm bộ “môn” 门 bên ngoài và chữ “chúng” 众 bên trong.
Phật học từ điển của Đoàn Trung Còn, ở mục A Súc (Phật) cũng ghi chữ “Súc” như thế.

Dịch giả: Huỳnh Chương Hưng
Nguyên tác Trung văn trong

QUAN ÂM TIỂU BÁCH KHOA
观音小百科
Tác giả: Nhan Tố Tuệ 颜素慧
Trường Sa – Nhạc Lộc thư xã, 2002

(Sưu tầm trên mạng)


LÁ GAN NGƯỜI NAM

Mấy hôm rày Việt Thảo lại post liên tục nhiều clip video mới của "Chuyện bên lề", trong tập mới nhất 486 được post ngày 27/10/2016, anh kể một câu chuyện mang hơi hướm dã sử nhưng nghe xong các bạn sẽ cảm thấy cái hào hùng của người Nam nhưng nghẹn ngào với cái bạc bẽo của con người. Không lẽ đời là c'est la vie. Nhưng ít ra các bạn vẫn thấy được cách "anh hùng trọng anh hùng" dù là ở 2 vị trí thù địch.
LÁ GAN NGƯỜI NAM
Giặc phương Bắc rần rật kéo vào kinh thành Thăng Long. Quan và dân rủ nhau chạy loạn. Năm hôm trước khi mới nghe tin giặc còn cách kinh thành hai trăm dặm Hoàng Thượng và hoàng thân quốc thích đã lặng lẽ rời đến một nơi ẩn nấp an toàn.
Trần Tiết, gã bán thịt lợn. Nghe tin giặc sắp tràn tới, vợ gã giục gã:
-Chàng muốn chết hay sao mà còn mổ lợn để bán, có lo soạn sửa mà chạy đi không?
Trần Tiết cười:
-Hiền thê hãy đem các con về bên quê nội Phú Thọ đi, hy vọng với sự phù hộ của các Vua Hùng nàng và các con sẽ bình an. Riêng ta, ta không đi đâu cả.
Khuyên nhủ mãi, chồng vẫn khăng khăng không chịu đi, vợ Tiết lắc đầu ngao ngán cùng con cái gạt lệ phân ly. Chiều đó, hai mươi vạn quân phương Bắc chiếm cứ kinh thành. Bấy giờ kinh thành chẳng khác gì ngôi mộ hoang lớn, không một bóng người, ngay cả gà chó cũng không có nửa con. Trần Tiết gánh thịt lợn dạo qua dạo lại trước cổng kinh thành rao:
-Ai thịt lợn đây, ba mươi đồng một ký.

Tên tướng giặc ra lệnh cho quân lính gọi gã bán thịt lợn vào. Trần Tiết nghênh ngang đi giữa hàng vạn quân lính giặc, mặt không chút run sợ, vào đến nơi nhìn thấy tướng giặc đang ngồi chệm chễ trên ghế, Tiết hỏi: -Ngài định mua thịt tôi chăng? Thịt tôi chỉ bán cho người dân Đại Việt, còn với người phương Bắc tôi không bán. Tướng giặc trố mắt nhìn Tiết bật cười:
-A ha tên này khá. Ba mươi năm ta tung hoành năm bắc, trải qua trăm ngàn trận đánh, san bằng hàng ngàn thành trì, đi đến đâu kẻ nào hễ nghe tên ta là sợ vỡ mật, đứng trước ta kẻ nào cũng phải uốn gối khom lưng, chỉ duy nhất nhà ngươi dám ăn nói xấc xược như thế.
Trần Tiết cười ha hả:
-Ngài không phải phụ mẫu tôi, không phải đức vua của Đại Việt vì cớ gì tôi phải khom lưng trước ngài? Ngài đem quân dày xéo non sông bờ cõi Đại Việt tôi hận không thể lột da uống máu của ngài hà cớ gì tôi phải sợ ngài?
Tướng giặc nghe những lời đó, bất giác mắt long sòng sọc, da mặt giần giật, đập mạnh tay xuống bàn, thét lớn:
-Hảo hảo, có chút chí khí. Ta rất thích những tên ngang tàng không sợ chết như ngươi. Rồi hắn dịu giọng. Nếu ngươi muốn có thể đầu quân cho ta, ta đam bảo sẽ cho ngươi một chức vị xứng đáng trong quân của ta. Trần Tiết trợn trừng hai mắt nhìn thẳng vào mặt tướng giặc hỏi lớn:
-Thưa ngài, kẻ nhận giặc làm cha có đáng băm vằm chăng?
Tướng giặc đanh giọng:
-Giết.
Trần Tiết tiếp:
-Kẻ luồn trôn liếm gót ngoại bang, quay mặt với sự sống còn của dân tộc, hưởng vinh hoa phú quý trên xương máu đồng bào có đáng cho muôn ngựa phanh thây không?
Tướng giặc thét:
-Chém.
Trần Tiết tiếp:
-Bất cứ kẻ nào vì lợi ích bản thân mà phản bội dân tộc, làm tay sai cho ngoại bang đều không xứng làm con người, đáng bị muôn dân nguyền rủa, trời không dung đất không tha. Thế thì tại sao ngài lại xúi tôi sa vào con đường tội lỗi ấy?

Tướng giặc lông mày dựng ngược cười khoái trá:
-Thú vị, thú vị ha ha, không ngờ đất nước man di mọi rợ này còn có món sản vật lạ kỳ như nhà ngươi. Ta cứ tưởng bọn người phương nam tên nào tên nấy lá gan chỉ bé tý tẹo bằng cái móng tay của ta .
Trần Tiết lớn giọng bảo:
-Xin ngài cho tôi mượn một thanh trủy thủ có được chăng?
Tướng giặc rút thanh trủy thủ bên hông trao cho Trần Tiết nói:
-Đây là thanh trủy thủ trí bảo hoàng thượng ban tặng cho ta, chém sắt như chém bùn.
Trần Tiết đưa một tay cầm lấy, rút ra, ánh sáng từ ngọn trủy thủ làm Tiết lóa mắt, Tiết chậc lưỡi:
-Đồ tốt, đồ tốt.
Tiết thở dài một cái, nhìn lên chính điện, nơi đặt ngai vàng của vua, bất giác sa lệ. Tiết nói trong mơ màng: -Các ngài chỉ biết một mà không biết hai, người dân Đại Việt chúng tôi lá gan không hề nhỏ mà còn lớn hơn gấp nhiều lần lá gan người phương Bắc các ngài, chỉ có điều vua quan tham sống sợ chết, làm cho ý chí người dân cũng theo đó mà tiêu tán. Than ôi, quan thế ấy, vua thế ấy, non sông gấm vóc này còn chi, còn chi. Dứt lời Tiết quay trủy thủ đâm thẳng vào bụng. Tướng giặc a lên một tiếng, đánh rơi tách trà vừa cầm lên tay. Thanh trủy thủ sắc lẹm, khứa một đường trên bụng Tiết.
Tiết đưa tay còn lại thọc vào bụng moi từng phần nội tạng ra ngoài, thều thào nói:
-Đấy ngài thấy chưa, ruột chúng tôi cũng có khác gì của các ngài đều là con người cả thôi…Móc đến lá gan Tiết đã sắp tàn hơi, gượng thốt lên:
-Lá gan người Đại Việt là thế này đây thưa ngài…ngài hãy nhìn cho kỹ và nhớ lấy…Một ngàn năm bị các ngài đô hộ, dân tộc này vẫn quật cường đứng dậy đạp lên đầu các ngài…Bây giờ các ngài chiếm được Đại Việt nhưng rồi chúng tôi sẽ dành lại…
Dứt lời Tiết gục xuống.

Tướng giặc vào sinh ra tử bao phen chưa lần nào run sợ nhưng hôm nay trước cảnh tình ấy, chả rét mà run. Hắn quỳ xuống vái xác Trần Tiết mà rằng:
-Ta lạy ngươi không phải vì ta sợ ngươi mà ta đau tiếc cho một tuấn kiệt không gặp thời. Nếu người phương nam ai cũng như ngươi thì chúng ta làm sao lấy được Đại Việt một cách đơn giản thế này.
… Bên ngoài thành Thăng Long, sáng hôm sau mọc lên một ngôi mộ, trên bia ghi hàng chữ “Kỳ Nhân Đại Việt”. Trần Tiết đã được tên tướng giặc lệnh cho người chôn cất tử tế. Hơn mười năm sau giặc phương Bắc một lần nữa bị đuổi ra khỏi bờ cõi Đại Việt. Thời gian trôi rêu mờ sương phủ nấm mộ của Trần Tiết chìm vào quên lãng….
Trương Đình Phương